Từng Thề Ước

Chương 4: Dáng ngà vẻ ngọc ngất ngây say[1]




[1] Trích trong bài từ theo điệu Giang thành tử của Tô Thức (1036-1101), nhan đề Nghe đàn tranh trên hồ, cùng Trương Tiên Đồng làm thơ. (ND)
Dưới một trời hoa tuyết tả tơi, hai người họ sánh vai cùng ngồi trên vách đá. Xi Vưu ngẩng đầu nhìn ánh trăng vằng vặc, nghe lòng mình êm đềm vui vẻ, tựa như được trở về miền rừng núi mênh mông ấy, tự do tự tại, chẳng còn cô đơn nữa.
Phía Tây đại hoang có một ngọn núi tuyệt đẹp, tên gọi Ngọc sơn[2]. Ngọc sơn là thánh địa thời thượng cổ, linh khí vô cùng đặc biệt, bất kể thần binh lợi khí nào chỉ cần tiến vào Ngọc sơn sẽ mất hết pháp lực, đúng là chốn đào viên ngoài cõi thế, vĩnh viễn không có giao tranh. Tất cả nữ tử cai quản Ngọc sơn đều phải tuân theo cổ huấn, không dính líu hồng trần, tránh xa phân tranh. Qua bao cuộc chiến tranh của Thần tộc, ngọn Ngọc sơn nằm ngoài cõi thế đã chở che cho không ít thần thánh cùng yêu tinh, ngay hai Thần tộc thượng cổ là Thần Nông và Cao Tân đều từng nhận ân huệ của Ngọc sơn, bởi thế, địa vị của Ngọc sơn ở đại hoang vô cùng tôn quý, đến Tam Đế cũng phải nhân nhượng ba phần.
[2] Theo Sơn Hải kinh, phần Tây Sơn kinh: “Đi về phía Tây ba trăm năm mươi dặm có ngọn núi tên gọi Ngọc sơn, là nơi ở của Tây Vương Mẫu.” Quách Phác chú thích: “Trên núi có nhiều ngọc thạch, nên gọi Ngọc sơn.”
Nữ tử cai quản Ngọc sơn được tôn xưng là Vương Mẫu, vì Ngọc sơn ở phía Tây nên người đời thường gọi là Tây Vương Mẫu, cứ ba mươi năm Vương Mẫu lại bày tiệc Bàn Đào một lần, mời anh hùng thiên hạ tụ họp về. Mấy ngày nay lại là tiệc Bàn Đào ba mươi năm mới có một lần, khách khứa từ bát hoang lục hợp tới dự tiệc, trên Ngọc sơn người đến kẻ đi cứ nườm nượp.
Xi Vưu mình khoác hồng bào, rảo bước từ phía Dao trì tiến lại, vẻ mặt lãnh đạm, ánh mắt sắc lạnh.
Bên bờ Dao trì trồng rất nhiều đào, hoa nở ngàn năm không tàn, trên bờ sắc hoa lộng lẫy, dưới nước sóng biếc dập dờn, hoa rọi nước, nước chiếu hoa, trên bờ dưới nước, từng khóm từng cụm, soi rọi lẫn nhau, lung linh rực rỡ.
Một cơn gió thổi, cánh hoa lả tả rụng xuống như mưa, phớt qua chân mày, gò má, bờ vai của Xi Vưu, hắn bước chậm lại, nhìn cảnh tượng hoa bay ngập trời, ánh mắt chợt trở nên bàng hoàng ngơ ngẩn, thấp thoáng vẻ bi thương.
Hắn dõi mắt nhìn theo những cánh hoa rơi nương chiều gió, trông về phía xa xăm – sóng biếc lăn tăn, khói sóng mịt mờ, mười dặm rừng đào, chín khúc hành lang, nữ tử áo xanh đứng dựa lan can trong tòa nhà thủy tạ đỏ thắm, tay cầm một cành đào, cúi đầu dứt nhị hoa ném xuống Dao trì trêu đùa bầy cá ngũ sắc.
Tim Xi Vưu bỗng đập rộn lên, hắn lập tức sải bước tiến lại, vừa đi vừa nhìn nữ tử áo xanh không rời mắt, nhưng bóng hoa trùng trùng cách trở, dáng người cứ thoắt ẩn thoắt hiện, không sao nhìn rõ, khi hắn chạy tới thủy tạ thì đã chẳng thấy người kia đâu nữa.
Xi Vưu cuống cuồng nhìn quanh tìm kiếm, nghe tiếng cười lanh lảnh từ rừng đào vọng ra, hắn liền chạy như bay đến, thấy một đám thiếu nữ đang nô đùa, trong đó có một nàng mặc áo xanh, hắn cất tiếng gọi “A Hành” đồng thời giơ tay toan túm lấy nàng, thiếu nữ bèn tươi cười ngoảnh đầu.
Cánh tay Xi Vưu khựng lại giữa chừng, không phải nàng!
Dáng người bên hàng hiên sóng biếc phảng phất giống A Hành, trong lúc nhất thời ngơ ngẩn hắn lại lầm tưởng đó là nàng, nhưng nàng lìa trần đã hai năm, thoáng động lòng đó chỉ là ảo giác dưới bóng hoa trong buổi chiều tà mà thôi.
Xi Vưu thất vọng quay người bỏ đi, hoa đào bên Dao trì được mặt trời chiếu rọi rực lên như lửa, nhưng trong mắt hắn, hương sắc ngập trời thảy đều lợt lạt, toát lên vẻ tịch liêu khôn tả.
Hai nữ tử sánh vai nhau đi giữa rừng đào, nhìn bề ngoài như đồng trang lứa, nhưng thực tế vai vế lại khác hẳn nhau. Một người là Vân Tang, Đại vương cơ Thần Nông quốc, người kia là Ngọc sơn Vương Mẫu.
Nghe đồn trên Ngọc sơn có vô số bảo bối, Vân Tang bèn tò mò hỏi Vương Mẫu xem Ngọc sơn rốt cuộc cất giấu những thần binh bảo khí gì.
Vương Mẫu chẳng hề giấu giếm Vân Tang, liệt kê tường tận từng thứ một.
Vân Tang xuất thân từ Thần tộc thượng cổ, sẵn có gia học uyên nguyên, cũng từng nghe nói tới một vài thần khí mà Vương Mẫu kể ra, nhưng nàng chưa hề biết món binh khí đứng đầu các thần binh lại là một cây cung không có mũi tên.
Vân Tang hỏi Vương Mẫu: “Chỉ nghe nói Bàn Cổ đại đế có một cây búa Bàn Cổ xẻ được đất trời, chưa từng nghe tới cung Bàn Cổ, lẽ nào trên đời này không có mũi tên nào lắp được vào cung ư? Đã không có tên thì cung còn dùng làm gì nữa?”
Vương Mẫu tính tình nghiêm túc, nói năng trang trọng nhưng đối đáp với Vân Tang lại vô cùng hòa nhã, dịu dàng: “Cây cung này không phải dùng để ghết chóc, mà dùng để truy tìm. Theo những gì Thái tổ sư phụ ghi chép lại thì sau khi Bàn Cổ đại đế xẻ đôi trời đất, vì bận rộn cai quản hai cõi nên đánh mất người con gái mình yêu thương nhất, để được gặp lại nàng, Bàn Cổ đại đế đã dốc hết tâm tư chế tạo ra cây cung này. Nghe nói nếu giương cung hết cỡ thì có thể gặp lại người thương lần nữa, bất kể xa cách bao nhiêu, bất kể đó là thần hay ma, còn sống hay đã chết.”
“Làm sao gặp lại được? Lẽ nào cây cung này có thể vạch đường cho đi tìm ư?”
“Ta chẳng biết nữa. Tương truyền năm xưa sau khi Phục Hy đại đế quy tiên, Nữ Oa đại đế quyến luyến nhớ nhung từng lên Ngọc sơn mượn cung, nhưng dốc hết thần lực, giương cung hết cỡ cũng chẳng cảm ứng được với Phục Hy đại đế, đừng nói là gặp lại nhau.”
Vân Tang tuy chững chạc nhưng vẫn mang tâm tính thiếu nữ, vừa nghe đã nảy sinh hứng thú, bèn than thở: “Thì ra Nữ Oa đại đế cũng bối rối bất lực trước tương tư, chẳng khác nào nữ tử bình thường. Có điều Bàn Cổ đại đế thần lực vô biên, chẳng gì không biết, sao lại không tìm thấy nữ tử mình yêu chứ?”
“Không biết nữa.”
“Sau khi đúc nên cây cung, Bàn Cổ đại đế có gặp lại người con gái đó không?”
Vương Mẫu cười đáp: “Ta làm sao biết được. Con bé nhà ngươi đừng cho là thật! Thái tổ sư phụ chỉ ghi chép lại theo lời đồn đại, rốt cuộc là thật hay giả chẳng ai hay, có lẽ chỉ là một câu chuyện xuyên tạc đấy thôi.”
Xi Vưu nghe nói đến đây liền rẽ cây tiến lại, “Ta muốn cây cung Bàn Cổ đó.”
Thấy hắn ở gần đó mà mình chẳng hề nhận ra, Vương Mẫu thầm kinh hoảng trong lòng, nhưng vẫn giữ giọng ôn tồn bảo: “Đó là thần khí đứng đầu trong những số những thứ Ngọc sơn cất giữ, không thể giao cho ngươi được.”
Không để Xi Vưu kịp mở miệng, Vân Tang đã cướp lời: “Vương Mẫu, lần này hội Bàn Đào đem bảo bối gì ra làm phần thưởng đây?” Lại quay sang nói với Xi Vưu: “Nếu ngươi muốn có thần khí thì tới chừng đó đến giành bảo bối này đi.”
“Chắc chắn không phải cung Bàn Cổ, nhưng cũng là thần khí hiếm có khó tìm.” Vương Mẫu chuẩn bị rời bước, “Vương cơ Hiên Viên lần đầu tiên đến Ngọc sơn, ta phải đi gặp vương cơ, các ngươi cứ tự nhiên nhé.”
Vân Tang thuở nhỏ từng theo Luy Tổ, vương hậu Hiên Viên học nuôi tằm quay sa, sớm chiều bầu bạn với vương cơ Hiên Viên Bạt suốt mười năm, tình cảm rất thân thiết, bèn mừng rỡ nói: “Thì ra Bạt muội muội cũng tới rồi, bao năm nay chúng ta chưa gặp nhau, đợi chút nữa phải đi tìm cô ấy hàn huyên mới được.”
Vân Tang thấy Vương Mẫu đã đi xa, liền quay sang bảo Xi Vưu, nửa như cảnh cáo lại nửa như cầu khẩn: “Ta biết ngươi vẫn coi trời bằng vung, tùy tiện phóng túng nhưng nơi này không phải Thần Nông sơn, ngươi nhất định không được làm loạn, nếu xảy ra chuyện thì chẳng ai cứu nổi ngươi đâu.”
“Biết rồi.” Xi Vưu cười cười, đưa mắt quan sát bố cục phương hướng trong rừng đào.
Vân Tang tâm tư thông tuệ, học rộng biết nhiều, hành sự quả quyết, đến Chúc Dung cũng phải kiêng nể ba phần, vậy mà chẳng cách nào trị được Xi Vưu, thấy hắn cười cười, lòng nàng càng thêm thấp thỏm, đành thầm mong sao mình chỉ lo hão mà thôi, “Phụ vương cho ta đem ngươi đến dự tiệc Bàn Đào là muốn ngươi làm quen với tình hình của đại hoang chứ đâu phải để ngươi làm loạn. Trên đại hoang này có mấy nữ tử không thể đắc tội, người thứ nhất chính là Vương Mẫu, ngươi nhất định không được…”
Xi Vưu cắt lời nàng: “Thế còn thứ hai?”
“Vương cơ tộc Hiên Viên, Hiên Viên Bạt.”
Xi Vưu đùa: “Chứ không phải cô à?”
Vân Tang lườm hắn: “Hoàng đế Hiên Viên thê thiếp hàng đàn, trong đó có bốn phi tử được sách phong chính thức, bốn người này sinh được tổng cộng chín người con nhưng chỉ có một vương cơ Hiên Viên Bạt, hơn nữa còn là do chính phi Luy Tổ sinh ra, anh trai nàng cùng mẹ nàng chính là Hiên Viên Thanh Dương, kẻ có khả năng kế thừa đế vị Hiên Viên cao nhất. Từ nhỏ Hiên Viên Bạt đã đính hôn với tộc Cao Tân, vị hôn phu chính là Cao Tân Thiếu Hạo, cũng là kẻ rất có khả năng sẽ kế thừa ngôi vị Tuấn Đế.”
Xi Vưu nhìn quanh nhìn quất khắp rừng đào, hờ hững nói: “Vậy ả Hiên Viên Bạt không trêu vào được rồi.”
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
Vân Tang mỉm cười đáp: “Có điều tính tình Bạt muội muội rất tốt. Vương Mẫu lại…”
Vừa thấy nàng định chuyển chủ đề khuyên mình đừng quậy phá, Xi Vưu liền quay ngoắt người bỏ đi, Vân Tang cau mày, đoạn lắc đầu cười gượng, cứ theo tính tình hắn thì có thể nhẫn nại lắng nghe đến giờ đã là khó lắm rồi.
Vân Tang xem thời gian, đoán chừng bên Hiên Viên Bạt đã yên tĩnh, lại hỏi han biết được nàng ở Ao Đột quán, bèn theo hướng thị nữ chỉ, một mình tới thăm hỏi.
Vân Tang học rộng hiểu nhiều, từng trông thấy không ít cảnh đẹp kỳ thú, biết rằng tên gọi phải tương ứng với cảnh sắc mới coi là tên hay. Lấy hai chữ “ao đột”[3] đặt tên quán quả là độc đáo mới lạ, có điều thật không tưởng tượng nổi cảnh trí phải ra sao mới xứng được với tên đó.
[3] Hai chữ “ao đột” có nghĩa là lồi lõm. (ND)
Dọc đường càng xa khỏi Dao trì cảnh sắc càng vắng vẻ, cây cối dần lộ vẻ hoang sơ, con đường mòn trải sỏi uốn lượn quanh co, dòng suối nhỏ róc rách lúc ẩn lúc hiện. Đi không bao lâu thì thấy đình đài lều gác, cầu nhỏ mái cong trên sườn núi xa xa. Bốn bề cũng trồng toàn đào nhưng khác với rừng bích đào mười dặm rực rỡ sắc hương bên bờ Dao trì, ở đây chỉ toàn bạch đào ngàn cánh, lại trồng rất thưa, từng cây từng cây nở hoa trắng muốt, thanh khiết âm thầm, tựa như người đẹp ẩn cư nơi vắng vẻ, hoặc âm thầm nở bên hiên dưới cửa, hoặc chỉ thấy hương chẳng thấy hoa, nhìn quanh tìm kiếm mới thấy một cành hoa e thẹn ló ra dưới mái nhà, cách một bức tường đá.
Có lẽ để khỏi phá vỡ không khí thanh tĩnh u nhã nên nơi đây cũng vắng bóng thị nữ, rất hợp ý Vân Tang, dọc đường tới đây nàng chẳng gặp ả thị tỳ nào, có điều vẫn chưa thấy ý vị của hai chữ “ao đột” đâu cả, nhưng bậc kiến tạo nơi này tâm tư linh mẫn, ắt hẳn hai từ đó chẳng phải gọi suông.
Men theo đường hoa, Vân Tang chỉ nghe róc rách mà chẳng thấy dòng nước nào cả, phải ngoặt qua vách núi mới trông thấy xa xa có một mặt hồ thăm thẳm, nước hồ xanh biếc như ngọc, hòn đá bên hồ còn khắc ba chữ Ao Tinh trì, nét chữ cổ phác. Vân Tang mừng thầm bèn rảo bước lại đứng bên hồ, thấy từng đợt gió mát phả vào mặt rất dễ chịu, vô tình nàng cúi đầu ngắm bóng mình dưới nước, bỗng giật nảy người, trên mặt hồ có đến mấy Vân Tang, có kẻ còi gí như người lùn, kẻ lại cao lớn như người khổng lồ, kẻ cổ ngẳng bụng to như bị úng nước, kẻ đầu to tứ chi nghều ngào như quả bí đao trên sào trúc… kẻ nào kẻ nấy đều rất kỳ quái tức cười.
Nhận ra sự kỳ diệu bên trong, Vân Tang xém nữa đã vỗ tay khen hay. Té ra nơi này chẳng những nước biếc như ngọc mà còn là ngọc biếc như nước, mặt hồ xanh biếc trước mặt thoạt trông thì lăn tăn sóng gợn, hoàn mỹ vẹn toàn, thực tế bên dưới ẩn giấu vô số bích ngọc, bậc kiến tạo đã lợi dụng độ cong của bích ngọc khiến nước hồ chỗ nông chỗ sâu, tạo nên vô số nơi gồ ghề lồi lõm, mặt hồ như một tấm gương bằng ngọc phản chiếu bóng người, cũng hình thành nên vô số thấu kính lồi lõm, thấu kính lõm sẽ thu nhỏ hình dáng, thấu kính lớn thì phóng đại lên.
Thấy bốn bề vắng vẻ, Vân Tang liền nổi tính trẻ thơ, đi qua đi lại bên hồ, vung vẩy chân tay, nhìn bóng mình biến ảo dưới mặt nước, khi thành kẻ béo, lúc thành người gầy, nàng phá lên cười ngặt nghẽo. Vân Tang cười, những chiếc bóng muôn hình ấy cũng cười theo, thấy vậy nàng cười như nắc nẻ, cười đến chảy cả nước mắt.
Một nữ tử áo xanh ẩn mình trong bóng tối, lặng lẽ quan sát Vân Tang.
Lúc vừa lên núi chơi, thiếu nữ áo xanh đã nhác thấy Vân Tang nhưng nàng chợt nảy ý trêu đùa, muốn thử xem liệu nàng Vân Tang đoan trang từ tốn lần đầu nhìn thấy hồ nước quái dị kia có hoa chân múa tay, cười ngả nghiêng như mình chăng, bèn nấp vào góc khuất, định đợi khi Vân Tang mải cười sơ ý sẽ nhảy ra hù cho nàng ta chết khiếp.
Có điều, tận mắt thấy Vân Tang cười ngặt nghẽo, đột nhiên thiếu nữ áo xanh chẳng muốn quấy rầy nàng nữa. Mẫu hậu Vân Tang mất sớm, tiểu muội Nữ Oa[4] rong chơi Đông Hải không may chết đuối, nhị muội Dao Cơ vừa sinh ra là đau ốm liên miên, từ nhỏ trong lòng Vân Tang đã ngổn ngang trăm mối, nàng hầu như chưa bao giờ được thoải mái cười không cần ý tứ.
[4] Nữ Oa đề cập tới ở đây không phải Nữ Oa đội đá vá trời mà là con gái út của Viêm Đế trong thần thoại, về sau hóa thành chim Tinh Vệ ngậm đá lấp biển Đông. (ND)
Bỗng Vân Tang im bặt tiếng cười, sầm mặt quát: “Ai đó? Ra đi!”
Thiếu nữ áo xanh giật mình, đang định ngoan ngoãn bước ra nhận sai xin lỗi, chợt thấy một nam tử dáng dấp phong nhã, diện mạo tuấn tú, bước trong hương hoa, rẽ cây từ rừng đào ung dung tiến lại, khóe môi ánh mắt đều thấp thoáng nét cười, “Xin vương cơ tha tội, tôi thấy vương cơ hoa chân múa tay, cười ngả nghiêng như trẻ nhỏ nên không dám quấy rầy.”
Đôi má Vân Tang thoáng ửng hồng nhưng vẻ mặt càng lạnh lùng hơn: “Đã biết thân phận ta mà còn to gan dám rình lén ư?”
Nàng má phấn ngậm hờn, sầu vương khóe mắt, một thân áo trắng đứng cười bên hồ, sau lưng là mấy gốc bạch đào ngàn cánh mây thua tuyết nhường, dáng vẻ còn u uẩn thanh tao hơn cả hoa đào.
Nam tử nhanh nhẹn thi lễ, thành khẩn nói: “Không phải tại hạ dám càn rỡ, có điều năm xưa hao tâm tổn trí suốt ba năm dựng nên quán Ao Đột này chỉ mong rằng kẻ nào trông thấy mặt nước xanh cũng có thể cười sảng khoái, quên hết ưu phiền trên đời. Hôm nay thấy tâm nguyện đạt thành nên có phần thất lễ, xin vương cơ thứ tội.”
Vâng Tang sững người, hai chữ “ao đột” hàm ý sâu xa kỳ diệu lại do bàn tay kẻ này tạo ra ư? Trong lúc ngỡ ngàng, cơn giận của nàng chợt tiêu tan cả.
Thấy bóng người dưới hồ có gầy có béo có cao có thấp, Vân Tang hạ giọng nói: “Những hình ảnh lạ lùng này thoạt trông có vẻ không giống chúng ta nhưng lại đều là chúng ta, không có phục sức hoa kệ, dạo mạo đẹp xấu, tạm thời quên đi tên tuổi và thân phận, chỉ tự mình vì mình mà cười sảng khoái một phen mới chỉ là nửa tâm nguyện, để cảm tạ ngươi đã cho ta một trận cười sảng khoái, ta sẽ tác thành nửa tâm nguyện nữa cho ngươi.”
Nam tử hỏi: “Nửa tâm nguyện nữa ư?”
Vân Tang khẽ cười, chỉ bóng mình và bóng nam tử in dưới hồ, “Hình ảnh dưới hồ này chẳng bị trói buộc bởi những phục sức bề ngoài, ta chỉ là ta, ngươi chỉ là ngươi, vậy nên ngươi chẳng cần tạ lỗi, ta cũng chẳng có quyền tha tội.”
Nam tử chợt thấy tim đập rộn ràng, ánh mắt thoáng mừng rỡ bất ngờ nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên, cười mỉm.
Vân Tang quan sát mặt hồ rồi nói, “Nơi này phối hợp cả gồ và trũng, tuy tinh diệu nhưng vẫn nghiêng về trũng hơn, nếu chỉ dựa vào đó mà đặt tên Ao Đột quán e không khỏi gượng ép, hẳn ngươi cũng chẳng thèm làm vậy. Nếu mặt hồ này là trũng, thiết nghĩ phải có ngọn núi để thành gồ, có hồ sâu núi cao, non non nước nước mới xứng gọi là Ao Đột quán.” Nói rồi Vân Tang men theo Ao Tinh trì, đi về phía vách núi cheo leo bên kia hồ nước.
Nam tử vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, lặng thinh không nói, chỉ chăm chú nhìn theo Vân Tang.
Vân Tang nhìn quanh tìm đường, cây cối nơi đây bỗng nhiên tươi tốt um tùm, nàng kiếm một hồi mới thấy con đường mòn quanh co, chỉ đủ một người đi, trên vách núi khắc ba chữ “Đột Bích sơn”. “Ao Tinh trì, Đột Bích sơn” Vân Tang vừa nhẩm trong lòng, vừa men theo thềm đá leo lên đỉnh núi.
Cả ngọn núi đều làm từ ngọc thạch, nhô hẳn lên cao, mặt quay về phía hồ lồi lõm gồ ghề, nơi lồi ra thì sắc ngọc nhàn nhạt, chỗ lõm vào thì sắc ngọc đậm đà, bởi ánh sách phản chiếu đậm nhạt khác nhau, vừa khéo trung hòa bớt phần nào sự lồi lõm dưới lòng hồ, lại thêm nhìn từ trên xuống, không trông rõ mặt hồ lồi lõm, chỉ thấy mặt nước phẳng lặng như gương, in bóng người một nam một nữ sánh vai đứng bên nhau.
Vân Tang nghĩ một lát mới hiểu ra, nhất định trên sườn núi có cơ quan, khéo léo lợi dụng tính khúc xạ của ngọc thạch nên rõ ràng nàng và nam tử kia kẻ ở trên người ở dưới, mỗi người một bên bờ hồ, nhưng bóng hình lại như sánh vai bên nhau, tựa kề thân thiết.
Thoạt đầu nàng còn tán thưởng nam tử học vấn uyên bác, biết phối hợp các loại kỹ năng, nhưng khi thấy bóng mình cùng y “tựa kề” dưới hồ, dù biết y đứng dưới chẳng thể trông thấy, nàng cũng không khỏi đỏ bừng mặt, tức tối lườm y, lòng thầm nhủ: y thiết kế như vậy là còn chừa chỗ bỡn cợt nữa! Nàng lập tức leo xuống, không thèm “tựa kề” cùng y thêm một giây một phút nào nữa. Trong lúc vội vội vàng vàng, nàng chẳng kịp trông thấy mấy hàng chữ phản chiếu trên mặt hồ lấp loáng: trăng nước bóng gương, vô tâm đi đến.
Vân Tang quay lại bên hồ, giữ nguyên vẻ mặt lạnh lùng, giễu cợt: “Tuy tâm tư tinh tế, tiếc rằng đã đặt nhầm chỗ mất rồi.”
Nam tử vẫn thản nhiên, dâng lên Vân Tang một chiếc hộp ngọc, hờ hững nói: “Tại hạ phụng lệnh điện hạ tới dâng vật này lên vương cơ, nay vật đã dâng rồi, tại hạ xin cáo lui.” Nói rồi liền nghênh ngang bỏ đi, thái độ cực kỳ vô lễ, khác hẳn kẻ khiêm tốn ôn hòa, cười nói tự nhiên khi trước.
Vân Tang tức nghẹn cả họng, hậm hực nhìn theo bóng y nhưng không sao nói rõ được mình tức giận điều gì. Một lúc lâu sau nàng cúi đầu, trông thấy dấu ấn Huyền điều – dấu ấn của vương thất Cao Tân – in trên hộp ngọc mới sực nhận ra: “Này, ngươi nhận lộn người rồi, ta không phải vương cơ Hiên Viên mà là vương cơ Thần Nông kia.”
Thiếu nữ áo xanh bấy giờ mới từ sơn động nhảy ra, vỗ tay cười nói, “Hay cho Ao Đột quán, thiết kế đã khéo, giải thích còn khéo hơn, muội ở bên hồ này ngắm nhìn suốt nửa ngày mà không nhận ra cái gì là nước thành chỗ trũng, non thành chỗ gồ.”
Chẳng hiểu sao trong lòng Vân Tang bỗng vừa thẹn vừa giận, cảm giác lạ lùng khó tả chưa từng thấy, nàng tức tối quăng hộp ngọc cho thiếu nữ áo xanh, chế giễu: “Hiên Viên vương cơ, chú rể của muội ngàn dặm xa xôi sai thuộc hạ mang quà tới tặng muội này, hèn nào muội cười tươi thế!”
Hiên Viên Bạt mở hộp ra xem, đỏ mặt nói: “Đâu phải quà cáp gì? Chỉ là mấy viên thuốc thôi mà.” Nàng ngẩng đầu lên, thấy Vân Tang đang đứng ngẩn người ra đó, gọi mấy tiếng cũng không nghe.
Hiên Viên Bạt vội lay lay Vân Tang: “Tỷ tỷ, tỷ sao thế?”
Vân Tang đáp: “Vị công tử vừa rồi là do Thiếu Hạo phái tới đưa đồ cho muội ư?”
“Chắc là thế.”
“Y thấy ta phục sức hoa lệ lại đứng trong Ao Đột quán, gọi vương cơ ta cũng đáp, té ra y tưởng nhầm ta là muội.”
“Phải đó, chẳng phải tỷ đã biết rồi sao?” Hiên Viên Bạt ngơ ngác chẳng hiểu rốt cuộc Vân Tang định nói gì.
“Vậy y đương nhiên cũng nghĩ rằng ta là vị hôn thê của Thiếu Hạo, nghĩ rằng ta là một nữ tử đã đính hôn.”
“Ừm.” Hiên Viên Bạt gật đầu, vẫn chưa hiểu điều Vân Tang muốn nói.
Vân Tang cười rạng rỡ, ánh mắt lấp lánh niềm vui.
“Tỷ tỷ, sao tỷ cứ lúc vui, lúc giận, lúc lại thẫn thờ ra thế? Chẳng giống khi xưa chút nào.”
Vân Tang chỉ cười làm thinh, hồi lâu mới nói: “Còn muội vẫn y như hồi nhỏ. A? Thuốc à? Sao Thiếu Hạo lại phái người tới đưa thuốc cho muội? Muội bị bệnh ư? Hèn chi sắc mặt muội xanh xao quá.”
“Ôi, tỷ đừng nhắc đến chuyện ấy nữa, nói ra chỉ tổ làm trò cười thôi! Lúc muội du ngoạn nhân gian đã bị thương, được Thiếu Hạo cứu đó!”
Vân Tang véo mũi Hiên Viên Bạt, “Chẳng phải vừa khéo ư, anh hùng cứu mỹ nhân, mỹ nhân lấy thân đền đáp!”
Hiên Viên Bạt bĩu môi, “Khéo cái gì mà khéo? Muội có biết y cao hay thấp, béo hay gầy đâu. Lúc đó loạn dân ở Cao Tân vừa dẹp xong, Đại ca bảo Thiếu Hạo còn chuyện quan trọng phải lo liệu, chẳng đợi muội tỉnh lại y đã đi rồi, y trông thấy muội chứ muội nào đã thấy y, đúng là muội bị thiệt mà!”
Vân Tang cười: “Đừng lo, tuy chưa gặp Thiếu Hạo nhưng tỷ dám chắc y nhất định không làm muội thất vọng đâu.”
“Hừm, tỷ cũng chưa thấy, làm sao khẳng định được gì chứ?”
“Muội thấy gã vừa rồi thế nào?”
“Lời nói cử chỉ của y khiến muội nhớ tới Tri Vị bá bá.” Tri Vị phò tá Hoàng đế dựng nước, được ca tụng là đế sư, theo lời Hiên Viên Bạt có thể thấy nàng cũng khen ngợi nam tử vừa rồi.
Vân Tang tiếp: “Chim khôn chọn cành mà đậu, kẻ có tâm tư tinh tế nhường ấy đã chọn Thiếu Hạo trong hơn hai mươi vương tử Cao Tân, bởi thế muội cứ yên tâm đi.” Nàng thoáng chần chừ rồi ngập ngừng hỏi, “Muội có dò la xem y là ai được không?”
“Muội nhờ Tứ ca đi hỏi là biết thôi, đừng nói tới tài hoa, chỉ cần xét dung mạo, ở Cao Tân cũng chẳng có mấy công tử tao nhã tuấn tú như thế đâu.”
Vân Tang đỏ bừng mặt lên, “Tỷ tỷ còn chút việc phải nhờ muội đây.”
“Gì thế tỷ?”
Vân Tang ghé tai Hiên Viên Bạt thì thầm, vẻ mặt Hiên Viên Bạt thoắt kinh ngạc, thoắt tươi cười, sau cùng gật đầu lia lịa, hai nữ tử ngồi bên hồ to nhỏ hơn một canh giờ, mãi tới khi mặt trời ngả về Tây, Vân Tang mới đi khỏi.
Màn đêm buông xuống, mây che mờ trăng, khe núi mịt mù sương phủ.
Những đóa hoa đào trong Bàn Đào viên như được phủ một lớp màn the, thoạt nhìn tưởng như cả đất trời đều hóa thành mây ráng khói hồng, mờ mờ ảo ảo.
Xi Vưu bay vút vào giữa vườn đào, rút một dải lụa hồng bịt hai mắt lại. Lúc ban ngày, hắn đã phát hiện ra Ngọc sơn và rừng đào là một trận pháp lớn, không muốn bị ảo ảnh mê hoặc thì đừng nhìn, chỉ có thể dùng tâm nhãn cảm nhận sự biến hóa kỳ diệu của linh khí mà thôi.
Hắn di chuyển trong rừng đào, hết đi lại dừng, lúc đi thẳng lúc đi vòng, lúc rẽ ngoặt, cuối cùng cũng phá được trận pháp trong đó, tiến vào địa cung của Ngọc sơn. Nhìn hắn phá trận pháp có vẻ dễ dàng nhưng thực ra một khi đã vào trận, chỉ cần sẩy chân một bước sẽ lập tức chuốc lấy cái chết, mấy vạn năm nay mới chỉ có mình hắn suôn sẻ vượt qua.
Cả tòa địa cung đều được dựng nên từ ngọc thạch, chẳng có viên minh châu nào mà vẫn lấp lánh sáng rực. Phòng ốc bên trong san sát, đường đi khúc khuỷu, cất giấu đủ thứ báu vật, không sao tìm nổi. Xi Vưu nghĩ cung Bàn Cổ là thần binh, hẳn sẽ đi trong kho Binh Khí, bèn định thần cảm nhận một lát rồi chạy thẳng về hướng tỏa ra sát khí dày đặc.
Men theo bậc thềm xuống dưới, dọc hai bên lối đi bày đủ loại thần binh lợi khí mà hết thảy thần tiên ngày mơ đêm tưởng nhưng hắn chẳng thèm liếc lấy một lần, chỉ dán mắt vào một vật đặt ở xa tít.
Cuối con đường là một bức tường tạc bằng bạch ngọc, trên tường treo một cây cung.
Thân cung đen nhánh, dọc thân khắc hoa văn đỏ rực đơn giản mà cổ phác, dường như cảm nhận được Xi Vưu có ý nhắm vào mình, cây cung chợt tỏa ánh sáng đỏ rực, kích thước lúc to lúc nhỏ, lúc to thì cao hơn cả người, lúc nhỏ thì chỉ chừng một tấc. Giờ đây, Xi Vưu mới hiểu tại sao Vương Mẫu lại nói cây cung này không có mũi tên nào lắp vào được – cây cung có biến đổi khi to khi nhỏ thì làm gì có mũi tên nào trên đời lắp vào nổi chứ?
Xi Vưu lặng lẽ quan sát nó một lát rồi vận hết linh lực, một tay kết thành trận pháp, một tay nhanh nhẹn tháo cung xuống. Chẳng hiểu hắn đụng phải cơ quan nào mà cả địa cung rung lên, từng khối từng khối Trảm Long thạch sắc lẹm từ trần rơi xuống, hắn vội vàng tránh né, khó khăn lắm mới tránh được thì Trảm Long thạch lại biến thành ngàn lưỡi kiếm lao về phía hắn khiến hắn phải vừa chạy vừa rút lá đào đã chuẩn bị từ trước ra. Lá đào cùng chung một huyết mạch với Ngọc sơn, có thể che giấu khí tức của hắn.
Xi Vưu khắp người thương tích, bộ dạng nhếch nhác, loạng choạng thoát khỏi địa cung. Thấy đám thị vệ đã đuổi đến nơi, hắn chẳng kịp thở, lập tức bỏ chạy ngay, nhưng đám truy binh phía sau càng lúc càng đông, từ bốn phương tám hướng ùn ùn đổ lại.
Chẳng nấp được vào đâu trong rừng đào, hắn đành chạy về hướng Dao trì.
Vầng trăng tròn vành vạnh treo giữa bầu không, dịu dàng soi chiếu Dao trì và rừng đào. Gió đêm hiu hiu, một mảnh hồ lăn lăn sóng biếc, mười dặm dài hoa rụng tả tơi.
Giữa lớp lớp hoa rơi, thiếu nữ áo xanh ngồi vắt vẻo trên lan can nhà thủy tạ, hai tay vén vạt váy, đôi chân trần đá hất nước lên nghịch ngợm. Từng chuỗi bọt nước bắn tung tóe, ánh trăng lấp lánh cùng sóng nước long lanh bập bềnh dưới gót ngà.
Trong khoảnh khắc, tất cả mọi âm thanh đều lặng phắc, trong mắt Xi Vưu chỉ còn thiếu nữ áo xanh dưới ánh trăng giữa rợp rợp bóng hoa, từng động tác của nàng đều trở nên thong thả rõ rệt lạ thường. Hắn ngỡ như mình nằm mộng, cứ vừa chạy và chăm chú nhìn nàng không chớp mắt, chỉ sợ hễ chớp mắt nàng sẽ tan đi mất.
Tiếng kêu réo vẳng lại phá tan bầu không khí tĩnh lặng về đêm ở Dao trì, thiếu nữ áo xanh nghe động liền mỉm cười ngoái đầu khiến Xi Vưu giật nảy mình, khựng bước.
Dưới ánh trăng bát ngát, khuôn mặt thiếu nữ hiện rõ nét, chính là Tây Lăng Hành mà hắn tìm kiếm lâu nay, còn tưởng rằng đã chết.
“Xi Vưu? Sao ngươi lại ở đây?” Tây Lăng Hành giật nảy mình sửng sốt, bộ dạng có phần đanh đá nhưng ánh mắt không giấu nổi mừng rỡ.
Xi Vưu ngẩn người ra một thoáng rồi chạy vụt tới trước mặt Tây Lăng Hành, nắm chặt lấy nàng từ trên xuống dưới thật kỹ mới dám khẳng định tất cả là sự thực, “Sao cô cũng lại ở đây?”
Tây Lăng Hành lờ đi không đáp, trỏ đám thị vệ trong rừng đào: “Bọn họ đang đuổi ngươi đấy à? Ngươi ăn trộm gì thế?”
Xi Vưu uể oải đáp: “Ta lấy một cây cung trong địa cung ở Ngọc sơn, nhưng giờ chẳng cần tới nữa, đợt lát nữa trả lại chúng là xong.”
Tây Lăng hành biến sắc, “Ngươi, ngươi, ngươi muốn chết à! Đây là Ngọc sơn thánh địa, dù Hoàng Đế, Viêm Đế, Tuấn Đế có đến cũng phải tuân theo quy củ ở đây!” Nàng cuống đến nỗi quay mòng mòng cả lên, trong khi Xi Vưu vẫn bình chân như vại, thản nhiên cười nhìn nàng luống cuống.
Thấy đám thị vệ càng lúc càng đến gần, Tây Lăng Hành bèn đá văng Xi Vưu xuống hồ, “Chạy mau! Ta đi cản truy binh! Mau chuồn xuống núi rồi ném ngay cây cung hỏng đó đi! Bất kể xảy ra chuyện gì cũng không được thừa nhận rằng ngươi đã vào địa cung Ngọc sơn trộm báu vật, hễ thừa nhận là chết đó!”
Xi Vưu vẫn nhơn nhơn ló đầu lên khỏi mặt nước, làm bộ căng thẳng nói: “Vợ yêu, nếu cô xui xẻo bị bắt, nhớ đừng khai ra ta đấy!”
Tây Lăng Hành bực bội quát: “Cút mau!”
Mắt thấy đám thị vệ ùn ùn kéo đến, Tây Lăng Hành vội liếc xuống hồ, không thấy Xi Vưu đâu nữa, nàng mới dám thở phào nhẹ nhõm, lờ mờ cảm thấy có gì đó không ổn nhưng đã bị cả đám thị vệ vây lấy, đành cố lằng nhằng câu giờ với họ.
Hôm sau, mọi thứ trên Ngọc sơn bề ngoài vẫn vậy, nhưng tất cả khách khứa đều nhận thấy sự khác lạ.
Vân Tang phái thị nữ đi nghe ngóng xem đã xảy ra chuyện gì, hồi lâu, thị nữ quay về bẩm báo: “Tối qua dưới địa cung Ngọc sơn mất một món thần khí.”
Vân Tang giận đến nỗi hai mắt tóe lửa, trừng trừng nhìn Xi Vưu, đang định phát tác thì ả thị nữ lại nói tiếp: “Nghe nói đã bắt được kẻ trộm rồi.”
Vân Tang nhẹ cả người, vội ngượng nghịu cười với Xi Vưu tỏ ý tạ lỗi rồi quay sang mắt thị nữ: “Lần sau phải nói cho liền mạch, không được ngưng giữa chừng như thế.”
Ả thị nữ gần đây mới được vào hầu hạ cạnh Vân Tang, chưa hiểu tính tình ngoài lạnh trong nóng của nàng, líu ríu đáp: “Dạ!”
Vân Tang hỏi: “Kẻ nào to gan dám mạo phạm Ngọc sơn thánh địa thế?”
“Sự việc nghiêm trọng quá, nô tỳ không dò la được, nghe tỷ tỷ hầu hạ Vương Mẫu nói Vương Mẫu đích thân thẩm vấn kẻ trộm suốt nửa đêm mà chẳng được kết quả gì, cũng chẳng tìm thấy tang vật, đành phải thả ra, còn cấm các thị nữ không được bàn tán nữa, có điều, có điều…” Thị nữ nói một lèo hết cả hơi, đỏ bừng mặt lên.
Vân Tang ngán ngẩm bảo: “Ngươi lấy hơi đã rồi hãy nói.”
Ả thị nữ bối rối luống cuống, suýt khóc òa lên, trong khi gã Xi Vưu đầu trò lại bật cười: “Có điều thế nào?”
Ả thị nữ hít vào một hơi, nhanh nhảu đáp: “Có điều Vương Mẫu nói lúc địa cung bị mất trộm chỉ có mình nàng ta ở đó nên bị tình nghi nhiều nhất, nếu không chứng minh được sự trong sạch của mình, nàng ta sẽ bị giam lỏng một trăm hai mươi năm.”
Xi Vưu đăm chiêu hỏi: “Phải giam lỏng một trăm hai mươi năm ư?”
Vân Tang vẫy tay ra hiệu cho thị nữ lui xuống rồi thản nhiên nói: “Vậy là nhẹ lắm rồi. Phạm tội trên Ngọc sơn, sợ nhất không phải là Vương Mẫu xử phạt, mà là Vương Mẫu không xử phạt lại giao kẻ trộm cho gia tộc y, bọn họ đương nhiên phải có lời lại với Ngọc sơn, còn phải đối mặt với miệng lưỡi thế gian, hình phạt chỉ có nặng chứ không có nhẹ.”
Xi Vưu đưa mắt chăm chú nhìn Dao trì trăm dặm, đào nở ngàn năm ngoài song cửa, làm thinh không nói.
Hoàng hôn buông, tiệc Bàn Đào bắt đầu, chỗ ngồi được đặt bên Dao trì, trong các đình đài lầu gác bày đầy những bàn những sập dài ngắn đan xen, thoạt nhìn có vẻ tùy tiện nhưng thực tế lại rất trật tự.
Hàng chủ trì gồm bốn vị trí, Vương Mẫu ngồi ghế chủ tọa, bên phải là vương tử Quý Ly của Cao Tân, bên trái là vương cơ Vân Tang của Thần Nông, bên dưới Vân Tang là vương tử Xương Ý của Hiên Viên. Tiếp theo lần lượt là chỗ ngồi của bốn đại thế gia, sau đó mới là khách khứa của các gia tộc khác.
Xi Vưu ngồi bên phía tộc Thần Nông, vừa nâng chén uống rượu vừa dùng thần thức tìm kiếm Tây Lăng Hành nhưng chẳng thấy nàng đâu cả. Có lẽ vì phạm tội nên nàng đã bị cấm tham dự tiệc Bàn Đào rồi.
Trên Thí Luyện đài bắt đầu diễn ra các cuộc so tài về thần lực pháp thuật, kẻ thắng sẽ giành được tặng phẩm do Vương Mẫu chuẩn bị, đây là tiết mục truyền thống hàng bao năm nay trong tiệc Bàn Đào, có lẽ thoạt đầu chỉ là trò chơi để tăng thêm tửu hứng nhưng ngàn năm nay dần dà đã biến thành cơ hội tuyệt vời để anh hùng các tộc tranh đua cao thấp, khiến tất thảy thiên hạ đều quan tâm, thậm chí vì thế mà nảy ra cả Đại hoang anh hùng bảng.
Vương Mẫu cử thị nữ mở hộp ra, bên trong đặt một đóa hoa đào diễm lệ tươi tắn, lên tiếng giới thiệu: “Đây là Trụ Nhan hoa được thai nghén từ linh khí của Ngọc sơn, chẳng những có thể làm binh khí mà còn có khả năng giúp chủ nhân giữ mãi dung nhan tươi trẻ, không cần hao phí linh lực.”
Tất cả nữ tử đều ước ao giữ mãi dung nhan tươi trẻ, không khỏi kinh ngạc khẽ ồ lên.
Xi Vưu đã định lấy cớ thay đồ để rời chỗ, nghe thấy tiếng trầm trồ bèn ngoảnh lại nhìn Trụ Nhan hoa, bỗng động lòng dừng bước.
Xi Vưu đứng ngoài âm thầm xem tỉ thí, đến vòng cuối cùng quyết định thắng thua mới nhảy lên Thí Luyện đài, chỉ vài chiêu đã đẩy lùi được kẻ đang thắng thế, đoạt lấy Trụ Nhan hoa nhanh như sét đánh, dương dương tự đắc vẫy vẫy đóa hoa kẹp giữa ngón tay mình về phía Vương Mẫu, ném lại một câu “Đa tạ!” rồi nhảy xuống Thí Luyện đài bước đi.
Cử tọa đều kinh ngạc!
Kẻ đang thắng thế vừa rồi cũng là anh hùng nổi tiếng trong Thần tộc, vậy mà chỉ mấy chiêu đã bị Xi Vưu đánh bại, có điều đám khách khứa chẳng kẻ nào biết Xi Vưu, mọi người đều châu đầu ghé tai xì xào hỏi nhau về hắn.
Vân Tang thầm rủa Xi Vưu nhưng ngoài mặt vẫn phải ra sức che chở cho hắn, còn phải thay hắn nặn ra lý do cho hành vi vô lễ khi nãy nữa.
May sao Vương Mẫu cũng chẳng để bụng, chỉ thản nhiên tuyên bố Xi Vưu tộc Thần Nông đã giành chiến thắng.
Tối qua lúc gặp lại Tây Lăng Hành, Xi Vưu nắm lấy tay nàng, thoạt nhìn có vẻ thờ ơ nhưng thực tế là vừa kiểm tra thương thế của nàng, vừa để lại dấu ấn trên mình nàng. Giờ cứ việc lần theo đấu ấn đó, hắn dễ dàng tìm thấy Tây Lăng Hành.
Trong đêm tối, Tây Lăng Hành ôm một súc vải lụa men theo bờ Dao Trì, vừa đi vừa ngoảnh lại như sợ bị bám đuôi, chân bước về phía vắng vẻ.
Xi Vưu thấy hành động của nàng có phần kỳ lạ nên không gọi mà nấp trong bóng tối âm thầm bám theo.
Dưới bóng trăng, bên bia đá, vị công tử áo gấm đứng đầu ngọn gió, dung mạo tuấn tú, phong thái phiêu dật.
Tây Lăng Hành thong dong tới trước mặt y, “Nặc Nại tướng quân?”
“Chính tại hạ.”
“Ta là Tây Lăng Hành, bạn thân trong khuê phòng của vương cơ Hiên Viên.” Tây Lăng Hành dò xét Nặc Nại một lượt, như thể đang thầm định tình lang giùm bạn.
Nặc Nại dung mạo xuất chúng, danh tiếng lan xa, ở Cao Tân, mỗi lúc y ra đường đều có người xúm lấy nên đã quen với ánh mắt chằm chằm của kẻ khác, có điều chẳng hiểu sao ánh mắt Tây Lăng Hành khiến y nhớ tới vương cơ Hiên Viên bên Ao Tinh trì, trên Đột Bích sơn, đột ngột thấy bứt rứt không yên, vội vàng thi lễ: “Vương cơ truyền tin nói có việc quan trọng, dặn ta đừng tham dự tiệc Bàn Đào mà đợi người ở đây, chẳng hiểu đã xảy ra chuyện trọng đại gì?”
Chuyện quan trọng là không để ngươi trông thấy nàng ta trên tiệc Bàn Đào, Tây Lăng Hành chắp tay sau lưng nghiêng đầu cười hỏi: “Ngươi cảm thấy vương cơ thế nào?”
“Vương cơ huệ chất lan tâm, hoa dung nguyệt mạo.”
“Thật chẳng uổng công vương cơ biệt đãi ngươi.” Tây Lăng Hành trao súc lụa trong tay cho Nặc Nại. “Đây là vương cơ nhờ ta chuyển cho ngươi.”
Nặc Nại lui bước, không nhận lấy súc lụa, vẻ mặt lạnh băng, trong lời nói còn ẩn hàm ý: “Thiếu Hạo điện hạ bất kể tính tình hay tài hoa đều có một không hai, đúng là một đôi trời sinh với vương cơ, nếu vương cơ có gì gửi gắm, cứ việc phó thác cho Thiếu Hạo điện hạ, cần gì tại hạ ra sức.”
Tây Lăng Hành mỉm cười gật đầu, Vân Tang dặn nàng nếu Nặc Nại vui vẻ nhận lời ủy thác riêng thì chẳng những không được giao cho y mà còn phải mắng cho một trận, nhưng nếu y không chịu nhận thì phải nghĩ cách để giao nó cho y.
Tây Lăng Hành dúi súc lụa vào tay Nặc Nại, “Ngươi căng thẳng gì thế? Chẳng qua vương cơ hứng thú với việc chế tạo cơ quan trong trang viện, đây là bản vẽ mà vương cơ vẽ ra mấy năm nay, thật tình muốn nhờ ngươi chỉ giáo thôi mà.”
Sắc mặt Nặc Nại hơi dịu lại, “Danh sư trong vương tộc rất nhiều, tại hạ đâu dám nói xằng chỉ bậy.”
Tây Lăng Hành thở dài, “Ngươi bảo mình không dám nói xằng, vậy ngươi tưởng mấy kẻ mang danh cao sĩ kia dám nói xằng sao? Hơn nữa đừng nói trong Hiên Viên tộc, dù nhìn khắp cả thiên hạ cũng được mấy kẻ có tài như ngươi? Ngươi xem bản vẽ sẽ thấy, e rằng chỉ thua Ao Đột quán của ngươi mà thôi, còn những kẻ khác dù dám nói xằng cũng chẳng có tài mà lên tiếng đâu!”
Nặc Nại nghe đến đây hệt như kẻ hiểu võ gặp được kiếm báu, lòng nôn nóng chỉ hận không thể mở ngay súc lụa ra xem. “Vậy đợi tại hạ xem xét kỹ rồi sẽ bẩm lại với vương cơ.”
Tây Lăng Hành gật đầu cười ranh mãnh: “Vương cơ hành tung bất định, mấy ngày nữa có lẽ sẽ phải gặp sứ giả tới cầu kiến, tướng quân chớ vô lễ mà cự tuyệt ngay từ cửa nữa nhé.”
Nặc Nại mỉm cười hành lễ rồi cáo từ.
Tây Lăng Hành thấy y đã đi xa liền thong dong quay lại, đầu mải nghĩ miên man về Vân Tang cùng Nặc Nại, té ra Vân Tang tỷ tỷ cũng có lúc tinh quái nhường này, nàng càng nghĩ càng tức cười, không nhịn được hoa chân múa tay, cười hinh hích không thôi.
Đột nhiên nàng thấy mặt mình mát lạnh, vừa ngẩng đầu đã thấy ánh trăng vằng vặc, cánh đào trắng như tuyết bay ngập trời, phiêu phiêu phất phất, cuồn cuộn xoay xoay. Hệt như đông giá chợt về, cả đất trời phủ đầy một màu tuyết trắng, càng tăng thêm mấy phần kiều diễm dịu dàng.
Tây Lăng Hành vui thích chìa cả hai tay ra hứng lấy một vốc cánh hoa đưa lên mũi ngửi, thấy hương thơm ngan ngát, rõ ràng là hoa thật chứ chẳng phải ảo ảnh.
Nàng không nén nổi vui thích bắt đầu múa giữa trời “hoa tuyết”, tay áo lúc nhẹ nhàng vung ra, khi đột nhiên thu lại, tư thế uyển chuyển, bước chân thoăn thoắt, hệt như hoa yêu.
Nàng cười khanh khách gọi: “Xi Vưu, có phải ngươi không?”
Bóng dáng Xi Vưu dần dần hiện ra, tay còn cầm Trụ Nhan hoa, lặng lẽ cười giữa ngập trời hoa trắng, phong thái hiên ngang khiến những cánh hoa đào nhu hòa diễm lệ cũng đượm mấy phần anh khí.
Tây Lăng Hành cũng ngưng múa, đăm đăm nhìn Xi Vưu như đang nằm mộng.
Hai người cứ lặng lẽ nhìn nhau qua một màn tuyết trắng, mặc cánh đào bay ngập trời, chẳng rõ là do không đành phá vỡ vẻ đẹp trong khoảnh khắc hay trong lòng đang ấp ủ cảm nghĩ riêng.
Hồi lâu Tây Lăng Hành mới thở dài: “Ta biết ngươi sẽ không chịu nghe lời ta mà xuống núi.”
Xi Vưu chỉ cười không đáp.
Tây Lăng Hành chậm rãi bước tới, chăm chú nhìn hắn: “Hôm qua lúc ngươi đi rồi ta mới nhận ra, dù là cao thủ Thần tộc cũng chẳng mấy kẻ có thể an toàn thoát thân sau khi đánh cắp bảo vật dưới địa cung Ngọc sơn, khi xưa ở Bác Phụ sơn cũng là ngươi cứu ta phải không? Rốt cuộc ngươi là ai thế?
“Ta là ta thôi.”
Tây Lăng Hành quát, “Đừng gạt ta nữa, ta hỏi tên thật của ngươi kia!”
“Đám vu sư tộc Cửu Lê gọi ta là Thú vương, thần tiên trên Thần Nông sơn gọi ta là cầm thú hoặc súc sinh, còn sư phụ và Du Vương gọi ta là Xi Vưu.”
Xi Vưu trả lời hết sức thản nhiên nhưng Tây Lăng Hành lại thấy xót xa khôn tả, hạ giọng nói: “Linh lực của ngươi khá mạnh, ta còn tưởng ngươi là anh hùng nổi tiếng nào trong Thần tộc, ai dè lại chẳng có tên tuổi gì.”
Xi Vưu thổi đóa Trụ Nhan hoa trong tay, Trụ Nhan hoa từ từ nở ra, cao tới cả thước, trên cành đầy những nụ có đỏ có trắng, vô cùng mỹ lệ, hắn trao đóa hoa cho Tây Lăng Hành.
Thiếu nữ nào chẳng yêu hoa đẹp, Tây Lăng Hành liền mừng rỡ nhận lấy: “Tặng ta ư?”
Xi Vưu gật đầu.
“Cảm ơn ngươi.” Tây Lăng Hành vừa dứt lời cảm tạ đã bĩu môi lườm hắn, quay ngoắt đi, “Đồ bịp bợm! Rõ ràng ngươi lợi hại thế này, vậy mà dạo ở Bác Phụ quốc lại ức hiếp ta!”
Nàng leo lên đỉnh núi, kiếm một phiến đá tương đối bằng phẳng ngồi xuống, Xi Vưu cũng ngồi bên cạnh, khẽ gọi: “A Hành.”
Tây Lăng Hành ngoảnh đầu sang bên, chẳng để ý gì tới hắn, chỉ thích thú nghịch đóa Trụ Nhan hoa, nhìn tuyết rơi càng lúc càng dày.
Xi Vưu ngồi nhìn một lát rồi khum hai tay lên miệng huýt sáo mấy tiếng, lát sau chợt thấy hai chú chim cùng ngậm một cành đào bay lại, lá xanh biêng biếc như còn đẫm sương đêm, giữa đám lá thấp thoáng một trái đào nõn nà tươi rói, thoạt nhìn đã thèm.
Thần tộc có thể dùng thần lực sai khiến thú yêu điểu yêu, nhưng không thể ra lệnh cho đám chim thú bình thường chưa được khai thông linh trí, cảnh tượng này khiến Tây Lăng Hành tròn xoe mắt. Hai chú chim đậu xuống trước mặt nàng, đập cánh rồi cùng cất giọng hót líu lo như mời nàng nếm thử trái đào.
Tây Lăng Hành không khỏi nuốt nước miếng, liếc Xi Vưu rồi cầm lấy trái đào cắn một miếng, thấy thơm ngọt đến tận tâm can, ngon hơn hết thảy hoa quả trước đây từng nếm qua.
“Ngon quá!”
Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành, cười cười không nói, đây là trái đào ngon nhất trên Ngọc sơn này, khi xưa hắn còn thắc mắc tại sao con cáo nâu đó lại đem miếng mồi ngon nhất dâng cho kẻ khác, mãi đến bây giờ ngắm nụ cười mê hồn của nàng, hắn mới hiểu ra.
A Hành thấy trong lòng rúng động, chẳng dám nhìn Xi Vưu thêm nữa, chỉ cúi đầu lặng lẽ nghịch mấy cánh hoa rồi ăn đào, cảm giác vừa hoảng hốt vừa sợ sệt, còn xen lẫn chút ngọt ngào chẳng thể gọi thành tên.
Dưới một trời hoa tuyết tả tơi, hai người họ sánh vai cùng ngồi trên vách đá. Xi Vưu ngẩng đầu nhìn ánh trăng vằng vặc, nghe lòng mình êm đềm đến vui vẻ, tựa như được trở về vùng rừng núi mênh mông ấy, tự do tự tại, chẳng còn cô đơn nữa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.