“Nàng quên ngôi nhà trong núi Cửu Lê mà nàng tự tay bài trí rồi ư? Chúng ta có gia đình của chúng ta. Tuy bấy nhiêu năm nay nàng chưa hề quay
lại, nhưng hàng năm ta đều ở đó sửa sang, cây mướp trong vườn đã leo đầy cả giàn rồi; ta còn đào một cái giếng, nước giếng mùa đông thì ấm, mùa
hè thì mát, ngày hè nóng nực, bỏ dưa vào giỏ rồi thả xuống giếng ướp
lạnh, ăn vào mát lạnh cả người, phải rồi, ta còn bứng một góc tường vi
từ Thanh Khâu quốc đem trồng trong vườn, hoa nở ra đẹp như ráng chiều
vậy, nàng có thể ngắt lấy chế thành son môi…”
Đối diện với
đại quân dũng mãnh thiện chiến, hung tàn hiếu sát của Xi Vưu, binh sĩ
Hiên Viên không khỏi nhụt chí, cả Phản Tuyền chìm trong không khí nặng
nề chết chóc. Ly Chu và Tượng Võng đã phò tá Hoàng Đế suốt mấy ngàn năm, từng trải vô số trận chiến, lần đầu tiên gặp phải tình huống này, nghĩ
đủ mọi cách cũng không vực dậy được sĩ khí.
Vầng dương đằng Đông vừa nhô lên, ánh sáng chan hòa mặt đất, Phản Tuyền thành sừng sững cao
ngất như được phủ một lớp phấn vàng, tỏa hào quang nhàn nhạt.
“Xem kìa! Cái gì kia?” Đám binh sĩ xôn xao kinh ngạc.
Dưới ánh nắng rực rỡ, chân trời phía Tây dường như đang đùn lên một vầng mây ráng bảy màu.
Vầng mây ráng từ từ bay lại gần, bây giờ mọi người mới trông rõ là một con
chim cực lớn, bộ lông sặc sỡ đủ màu, đầu có mào, mỗi bên mắt có hai con
ngươi, chính là Trùng Minh điểu, được xưng tụng là đệ nhất mãnh cầm của
đại hoang.
Nhìn “đám mây ráng” bay có vẻ lững lờ nhưng thực tế
tốc độ của Trùng Minh điểu rất nhanh, mọi người vừa nheo mắt toan nhìn
cho kỹ, chợt thấy trên lưng Trùng Minh điểu cũng đang cõng một vầng
dương, tỏa ánh vàng rực chói mắt. Vầng dương này cùng vầng dương đằng
Đông phản chiếu lẫn nhau, tự như trên bầu trời xuất hiện hai mặt trời,
tỏa sáng chói lòa khiến mọi người không mở nổi mắt.
Ly Chu và
Tượng Võng tỉnh ra trước nhất, mừng rỡ đưa mắt nhìn nhau, cùng giơ tay
lên hoan hô. Là ông ta! Gã thiếu niên từng thề trước mọi người, nhất
định sẽ đưa Hiên Viên rời khỏi mảnh đất cằn cỗi ấy lại khoác áo giáp lên rồi!
Trùng Minh điểu lượn vòng phía trên Phản Tuyền, Hoàng Đế
mình vận giáp vàng, oai phong lẫm liệt đứng sừng sững trên không, đưa
mắt nhìn xuống bên dưới.
“Hoàng Đế, Hoàng Đế!”
Tựa hồ vầng dương ló dạng xua tan hết mây mù, sự xuất hiện của Hoàng Đế khiến cả Phản Tuyền thành bừng lên sức sống.
Giọng nói ôn hòa của Hoàng Đế thong thả vang lên: “Hiên Viên quốc từng được
gọi là Hiên Viên tộc, nằm ở phía Tây Bắc đại hoang, đất đai cằn cỗi, sản vật nghèo nàn. Hồi trẻ tới Trung Nguyên du ngoạn, chỉ vì nói giọng Hiên Viên mà ta luôn bị người ta khinh miệt, thậm chí mua món nữ trang có
giá một chút cho cô gái mình yêu quý cũng bị nghi là ăn cắp. Mấy ngàn
năm trước, ta đã đứng trên Hiên Viên sơn hỏi tổ tiên các người có dũng
khí theo ta ra khỏi Hiên Viên sơn hay không, bọn họ đều đồng thanh đáp:
“có.” khí thế ngất trời! Vì câu trả lời của họ nên bây giờ các ngươi mới có Hiên Viên quốc, không phải lo miếng cơm manh áo, dù đi đến bất cứ
đâu, hễ nói giọng Hiên Viên, đều được người ta trọng nể! Kẻ yếu chỉ biết khóc than cho hiện tại, còn kẻ mạnh sẽ đổ máu tranh đấu cho tương lai!
Các ngươi là kẻ yếu hay là kẻ mạnh?”
Hết thảy binh sĩ đều bừng
bừng nhiệt huyết, tựa hồ sự anh dũng khí thái của tổ tiên ngàn năm trước lại đang rần rật cháy lên trong lồng ngực họ.
Hoàng Đế đáp xuống đầu thành, giọng rền vang như sấm: “Hôm nay ta lại hỏi các ngươi, có dũng khí tử thủ Phản Tuyền không?”
“Có!” Tiếng hô đồng thanh rung chuyển cả núi rừng, chấn động đất trời, vang xa tít tắp.
Phong Bá phóng mắt trông về phía Phản Tuyền, chặc lưỡi than, “Chẳng trách lão ta hùng bá một phương, ta cứ ngỡ lão chỉ giỏi giở âm mưu, nào ngờ dương mưu của lão còn bài bản hơn, mới có mấy câu mà xoay chuyển hoàn toàn
cục thế, từ cầm chắc thất bại đổi ngay thành thắng bại khó đoán.”
Vũ Sư chỉ huy một tốp thợ khiêng đống binh khí vừa rèn lại, ưu tư hỏi: “Xi Vưu đâu rồi?”
Phong Bá liếc vào trướng lớn: “Đang ngủ!”
“Ầm ĩ thế này mà vẫn ngủ được à?”
Phong Bá cười, “Nếu huynh ấy muốn ngủ thì dù có đút đầu vào miệng cọp cũng không tỉnh đâu.”
Si đáp: “Khi nãy vừa tỉnh, hỏi “Hoàng Đế đến rồi à?”, ta đáp “Phải”, huynh ấy lại ngủ tiếp.”
“Vậy chúng ta phải chuẩn bị thế nào đây?” Vũ Sư hỏi.
“Nhóm lửa nấu cơm đi, à, thêm nhiều thịt vào nhé, cả gia vị nữa. Mẹ nó chứ,
trời cao đất rộng cũng không bằng cơm nóng canh sốt!” Khép lại vạt áo
choàng, Phong Bá bắt đầu đi tuần, cũng như mọi ngày hắn vừa đi vừa cười
tít mắt chào hỏi mọi người. Bốn huynh đệ Si Mỵ, Võng Lượng đang căng
thẳng vì tiếng hô vang từ phía quân Hiên Viên đưa lại, nhưng thấy Xi Vưu vẫn trở mình ngủ tiếp, Phong Bá thì nhơn nhơn cười đùa, họ cũng phá lên cười theo.
Không khí thoải mái lan nhanh chẳng kém gì căng
thẳng, các binh sĩ thấy bọn họ vẫn thản nhiên như thường, liền tự động
ai vào việc nấy, chẳng mấy chốc lại ngửi thấy mùi thức ăn thơm nức mũi,
mọi người vừa cười nói vừa uống bát canh thịt nóng hổi, người nóng bừng
lên, áp lực do Hoàng Đế gây ra bất giác tiêu tan đâu hết.
Sau
khi đến Phản Tuyền, Hoàng Đế cũng chẳng thay đổi chiến thuật, chỉ lo cố
thủ thành trì, bất kể Vũ Sư nửa đêm mưa gió dẫn quân đánh lén hay Phong
Bá đột ngột kéo binh tập kích như vũ bão, Hoàng Đế vẫn phòng thủ thật
vững, mưa đến đất ngăn, gió về cây cản.
Cuộc chiến này đã kéo dài hơn hai năm, song phương đều kiệt quệ rồi.
Hiên Viên là một quốc gia hoàn chỉnh, lương thảo được cung ứng đầy đủ, binh
sĩ lại ở trong thành, có thể cố thủ, còn Thần Nông đã mất nước, lương
thảo lúc có lúc không, binh sĩ phải đóng trại giữa đồng hoang, sĩ khí
cũng dần dần giảm sút.
Nhưng Xi Vưu chẳng hề lưu tâm chuyện đó,
hắn lấy dạ dày của một con yêu thú làm thành một quả cầu, mỗi lúc không
phải ra trận, hắn lại cùng cả đám huynh đệ Si Mỵ Võng Lượng chơi đá cầu, quả cầu nặng như một hòn núi nhỏ bị họ đá bay đi bay lại trên không,
muốn đá trúng ai thì đá trúng người đó.
Phong Bá vẫn thả sức
thích làm gì làm nấy nên tâm tình thoải mái như thường, chẳng hề bị ảnh
hưởng, chỉ có Vũ Sư hơi bồn chồn, bèn kéo Phong Bá tới gặp Xi Vưu, hành
lễ hỏi: “Tại hạ có một việc không hiểu, xin thỉnh giáo đại nhân.”
Vũ Sư xuất thân từ Xích Thủy Thị, một trong Tứ thế gia. Cũng như Tây Lăng
Thị, Xích Thủy Thị là thị tộc từ thời thượng cổ, chỉ xem trọng dòng dõi
chứ không để tâm quốc gia, không thuộc về bất cứ quốc gia nào, nhưng lại được tất cả các quốc gia coi trọng, xem như danh gia vọng tộc. Xích
Thủy Thị gia phong nghiêm cẩn, giáo dục con cháu rất nghiêm khắc, tuy Vũ Sư đã bị trục xuất khỏi gia tộc, còn bị trừng phạt nặng nề, thành ra
xấu xí tật nguyền, nhưng vẫn giữ nề nếp từ nhỏ, lời nói cử chỉ hết sức
khiêm tốn lễ độ. Đám huynh đệ của Xi Vưu đa phần lỗ mãng, thoạt đầu thấy rất khó chịu, còn sinh ra mâu thuẫn, phải nhờ Phong Bá đứng ra hòa
giải, nhưng sống chung lâu ngày, mọi người lại sinh lòng kính phục vị
tướng quân ăn nói lễ độ, hành xử chu đáo, giỏi hô mưa gọi gió, lại giỏi
nghề rèn binh khí này.
Xi Vưu vốn cũng là kẻ thô lỗ, nhưng được
Viêm Đế rèn cặp mấy trăm năm, tạm xem như thông văn hiểu võ, hắn chiếu
theo lễ tiết Thần Nông, cùng Vũ Sư chia nhau ngồi xuống, bây giờ mới lên tiếng: “Mời tiên sinh cứ nói.”
Vũ Sư nói: “Hai quân giao tranh, càng kéo dài càng bất lợi cho chúng ta, hiện giờ sĩ khí đã có phần giảm sút, nếu còn kéo dài, e rằng sẽ đến lúc Hiên Viên ồ ạt tấn công.”
Xi Vưu cười hỏi: “Tiên sinh có thượng sách gì chăng?”
Vũ Sư than: “Thật hổ thẹn, tại hạ vắt óc nghĩ mãi chẳng tìm được kế sách
gì. Hoàng Đế quả là tướng tài thiên cổ, hành quân bày trận rất nghiêm
mật kỹ càng. Hiện giờ chỉ còn một cách duy nhất là nhân lúc quân tâm
chưa tan rã hẳn, phải tìm biện pháp vực dậy sĩ khí, sau đó dốc toàn lực
công thành, dù sao Phản Tuyền cũng là cố hương của chúng ta, chắc sẽ nắm được năm phần thắng.”
Phong Bá lên tiếng: “Phản Tuyền dễ thủ
khó công, nếu chủ soái đổi lại là kẻ khác, có lẽ chúng ta còn có cơ lợi
dụng, nhưng hiện giờ Hoàng Đế đích thân cầm quân, có thể nói là vững như thành đồng, lỡ dốc toàn lực tấn công mà thất bại, bóng đen từ trận thất thủ Phản Tuyền lần trước sẽ tiếp tục ám ảnh quân sĩ, đến chừng đó, áo
giáp vàng của Hoàng Đế sẽ trở thành phướn chiêu hồn, bùa đòi mạng của
chúng ta đó.”
“Nhưng cứ giằng dai thế này, chúng ta còn thảm
hơn. Nếu đánh, may ra còn chút cơ hội, nhược bằng không đánh, có lẽ sẽ
bị tiêu diệt toàn quân.”
Phong Bá cười hì hì nhìn Xi Vưu, “Này,
ta nói huynh đó! Tuy Hoàng Đế lợi dụng Phản Tuyền nhãn, bày cái gì Thất
tinh trận chuyên để đối phó huynh, khiến huynh xông pha mấy lần chưa
được, nhưng huynh định bó tay chịu trói thật ư?”
Xi Vưu trả lời qua quýt: “Vậy ta lại dẫn quân công thành.” Nói là làm, hắn lập tức đi điểm binh, tấn công Phản Tuyền thành.
Nửa ngày sau, Xi Vưu hậm hực quay về, mặt nặng như chì, khiến tất cả im re
không ai dám nói với hắn một câu, không khí trong doanh trại càng thêm
nặng nề bức bối.
Đến tối, tướng sĩ coi quản lương thảo lại đến
báo sắp cạn lương, mà lương thảo mới còn chưa đến, hiện giờ buộc phải
thắt lưng buộc bụng, nếu mỗi người chỉ ăn lưng lửng dạ, thì may ra còn
kéo dài được bảy ngày nữa.
Lương thảo không đủ, e rằng tướng sĩ
có anh dũng đến mấy chăng nữa cũng chẳng đánh trận nổi, việc này ngay
đến Phong Bá cũng phải tái mặt.
Tám ngày sau, giữa canh khuya.
Binh sĩ Thần Nông tộc đang nhịn đói nằm ngủ, chợt các chiến sĩ đi tuần phát
hiện có quân sĩ Hiên Viên xuất hiện phía sau doanh trại của họ, từng tên nối đuôi nhau từ trong rừng đi ra.
Té ra, Hoàng Đế lợi dụng
khoảng thời gian hơn hai năm này, ngoài mặt giao chiến với Xi Vưu, bên
trong lại ngầm sai người đào một đường hầm, đầu ra chính là ngọn núi mà
quân đội Thần Nông vẫn xem như bức bình phong.
Đợi tới khi thời
cơ chín muồi, sĩ khí Thần Nông đã tan tác cả, lương thảo cũng cạn kiệt,
bấy giờ Hoàng Đế mới phái quân tinh nhuệ đi suốt đêm theo phong đạo vòng ra phía sau doanh trại Thần Nông.
Quân tinh nhuệ đánh lén từ phía sau, đại quân từ Phản Tuyền thành tấn công trực diện.
Tiếng la thảm xé toang màn đêm yên tĩnh.
Quân lính Thần Nông đang đói bụng, lại bị bất ngờ, trở tay không kịp, lập
tức thua tơi tả, bỏ chạy tứ tán. Phía trước là Phản Tuyền thành, hàng
ngàn hàng vạn binh sĩ Hiên Viên đang xông tới, phía sau là quân tinh
nhuệ của Hiên Viên được trang bị kỹ càng, sát khí đằng đằng, bên trái là dòng Tế thủy cuồn cuộn sóng, bọn họ đành men theo cánh phải, chạy vào
Phản Tuyền sơn cốc.
Thấy sơn cốc địa thế quanh co, khó mà truy
kích, tướng sĩ Thần Nông đều thở vào nhẹ nhõm, nhưng họ đâu có ngờ Hoàng Đế đã nghiên cứu kỹ lưỡng địa hình Phản Tuyền, sớm đoán được khi bị hai mặt giáp công, Thần Nông tộc chỉ có thể chạy về hướng này, bởi vậy đã
tập trung tất cả binh lực của Thần tộc bày trận đợi sẵn.
Vì trận chiến này, Hoàng Đế đã phải thao luyện hơn một năm, bảo đảm mấy trăm
tướng sĩ Thần tộc có thể tức tốc vào vị trí, phát động thế công.
Tiếng trống trận vang rền như sấm dậy lên từ hai vách núi, khiến tướng sĩ Thần Nông sợ vỡ mật, tuyệt vọng hoàn toàn.
Hoàng Đế đứng trên lưng Trùng Minh điểu, từ trên trời đáp xuống: “Xi Vưu, ta
cho ngươi một cơ hội để bảo toàn tính mạng cho binh sĩ, hoặc ngươi lập
tức quy hàng, thề trung thành với Hiên Viên, hoặc ngươi lặp tức tự vẫn,
bất kể ngươi chọn đường nào, ta cũng sẽ đối xử tốt với tất cả tướng sĩ.”
Hoàng Đế buông ra những câu ly gián lòng người trong tình cảnh này thật hiểm
độc vô cùng, nào ngờ Xi Vưu chỉ ngẩng đầu cười hỏi: “Nếu ta không chọn
đường nào cả thì sao?”
Hoàng Đế thoạt nhìn đã nhận ra kẻ kia là
Phong Bá giả trang, liền biến sắc mặt, Phong Bá nhìn nét mặt Hoàng Đế
cũng biết đã bị vạch trần, bèn cởi phăng hồng bào, biến lại nguyên hình, cười nói: “Trong lúc ngươi đuổi theo Xi Vưu giả này, chắc Xi Vưu thật
đã tiến vào Phản Tuyền thành rồi.”
Hoàng Đế mặt sạm như tro, năm xưa ông ta bảo Thanh Dương đóng giả làm mình để dụ địch, đến hôm nay Xi Vưu lại lấy chính gậy ông đập lưng ông. Hoàng Đế cứ ngỡ Xi Vưu đã trúng kế mình, nào ngờ mình phải trúng lại kế của hắn.
Trong Phản
Tuyền thành đã xảy ra đại biến, trước thế công như vũ bão của Xi Vưu và
Vũ Sư, chỉ trong thời gian uống cạn tách trà, Phản Tuyền thành binh mỏng lực yếu liền đổi chủ. Khi ngọn cờ vàng của Hiên Viên tộc bị hạ xuống,
thay vào đó là ngọn cờ đỏ phấp phới giữa không trung, cả dải đồng hoang
im phăng phắc. Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc đều không thể tin được
rằng Phản Thành đã lại bị mất! Phản Thành cũng đã lại quay về!
Hoàng Đế không hổ là Hoàng Đế, chỉ một thoáng đã trấn tĩnh lại ngay. Tuy Xi
Vưu đã chỉ huy tướng sĩ Thần tộc và Yêu tộc khống chế Phản Tuyền thành,
nhưng đại quân Nhân tộc bị Xi Vưu dùng làm mồi nhử vẫn còn ở trong sơn
cốc.
Hoàng Đế vận linh lực để tiếng nói vang đi thật xa: “Xi
Vưu, chỉ cần ta hạ lệnh một tiếng, đỉnh núi hai bên sơn cốc này sẽ đổ
sụp, mấy vạn tướng sĩ bị ngươi dùng làm mồi nhử đều phải vùi thây tại
đây.”
Tiếng nói như sấm rền, xua tan nỗi tuyệt vọng trong lòng tướng sĩ Hiên Viên, đánh tan niềm hân hoan của tướng sĩ Thần Nông.
Xi Vưu cưỡi đại bàng, chớp mắt đã tới trước mặt Hoàng Đế, “Vậy chúng ta quyết một trận sinh tử ngay tại đây đi!”
Tấm áo choàng của Phong Bá bay vụt lên, cả trời vần vũ gió mây, khiến người ta cơ hồ không đứng vững nổi.
Tượng Võng quăng đôi đũa trúc trong tay ra, đũa trúc vừa gặp gió liền dài ra, biến thành một khu rừng trúc san sát, ngăn cuồng phong lại.
Vũ
Sư đứng trên đầu thành Phản Tuyền, dựa vào Phản Tuyền thủy linh ngưng tụ trong thành làm thành mưa lớn, mực nước Tế thủy chẳng mấy chốc đã dâng
lên, một khi nước dâng cao quá mặt đê, tướng sĩ Hiên Viên ngoài thành sẽ chôn thây dưới đáy nước.
“Ly Chu!” Hoàng Đế thét lớn, mấy ngàn
năm sánh vai chiến đấu bên nhau, đôi bên vô cùng ăn ý, ông ta chẳng cần
hạ mệnh lệnh gì, tự khắc Ly Chu sẽ hiểu.
Ly Chu đứng ngay lối
vào sơn cốc, ngoảnh mặt về phía Tế thủy, hai chân dang ra, biến thành
trụ đất, cắm sâu xuống đất, hấp thu thổ linh từ lòng đất, đất vàng nổi
lên, nước dâng đến đâu, bờ đê cũng dâng cao theo đến đấy.
Trận chiến giữa hai đại Thần tộc đến giờ mới thật sự mở màn.
Hoàng Đế và Xi Vưu đứng giữa chừng không, trừng trừng nhìn nhau.
Hoàng Đế vung tay phát động thế công, lập tức vách núi hai bên đứt gãy, đá
tảng rào rào đổ xuống, Si Mỵ Võng Lượng đã đợi sẵn, dẫn một đám quân sĩ
Yêu tộc xông ra, thoắt ẩn thoắt hiện như quỷ mỵ, lần lượt đá văng từng
viên đá tảng như đá cầu. Nhờ luyện tập hơn một năm, tất cả đá đều nhắm
trúng vào Hiên Viên tộc, chuẩn hơn cả tên bắn.
Nhưng dù vậy, vẫn còn không ít đá tảng rơi xuống, đè chết khá nhiều quân Thần Nông, họ
nháo nhào chen lấn xông ra khỏi sơn cốc, liền đụng phải đám binh sĩ Hiên Viên cuống cuồng tràn vào sơn cốc vì sợ nước dâng, đôi bên lập tức lao
vào nhau chém giết.
Xi Vưu và Hoàng Đế kịch chiến trên không,
bóng đại bàng đen tuyền và Trùng Minh điểu rực rỡ thoắt phân thoắt hợp,
Hoàng Đế dùng một ngọn kim thương, Xi Vưu cầm một thanh trường đao, đao
thế của Xi Vưu khi mở rộng, lúc thu lại, hóa thành một con mãnh hổ lộng
lẫy đủ màu, thương pháp của Hoàng Đế lại nhanh nhẹn dứt khoát, hóa thành một con giao long vàng rực.
Giao long cùng mãnh hổ giao đấu,
thoạt đầu khó phân cao thấp, về sau, Hoàng Đế dù sao cũng dựa vào mưu kế mà xưng hùng chứ không phải nổi danh vì võ nghệ, nên thần lực không bì
được Xi Vưu, dần dà bị linh lực của Xi Vưu bao phủ, chiêu đòn càng lúc
càng chậm, động tác của giao long cũng càng lúc càng chậm theo, mấy lần
đã bị mãnh hổ cắn, tuy vẫn vùng vẫy giằng ra được, nhưng thân hình mỗi
lúc một nhỏ lại.
Hoàng Đế biết linh lực của mình không bì được
Xi Vưu, chỉ có thể tốc chiến tốc thắng. Giao long bèn cố ý để lộ sơ hở,
mãnh hổ vừa cắn vào bụng nó, lập tức giao long quẫy đuôi đập thẳng vào
mình mãnh hổ, mãnh hổ nhảy lên tránh thoát, giao long thừa cơ quay lại
cắn trả, nhưng vừa ngẩng đầu lên, chợt trông thấy từ phía chân trời đằng Tây bắn vọt lên một luồng sáng chói mắt.
Giao long bất giác khựng lại, để lộ sơ hở, liền bị mãnh hổ ngoạm trúng chỗ bảy tấc trên mình.
Giao long đau đớn gầm lên, ngửa đầu ra sau, nhưng cặp mắt vẫn đau đáu nhìn
về hướng Tây, từ khóe mắt, hai hàng linh lệ trong veo ứa ra.
Xi
Vưu cũng cảm thấy hướng Tây có vẻ khác thường, nhìn phản ứng của Hoàng
Đế, hắn càng thêm kinh ngạc, vội ngoái đầu nhìn về hướng Tây, thấy luồng sáng chói lọi kia đang bao lấy một con chim phượng trắng bạc chao liệng cuối trời Tây, ánh sáng từ từ nhạt đi, dường như cánh phượng kia cũng
mòn mỏi chết dần.
Xi Vưu biết, nhất định Hiên Viên quốc đã xảy
ra chuyện, nhưng còn chưa hiểu rốt cuộc là chuyện gì, chợt nghe thấy bên dưới có kẻ rú lên thê thiết: “Vương hậu qua đời rồi!”
Xi Vưu sững người, mẹ A Hành chết rồi ư?
Hoàng Đế vẫn giữ vẻ thản nhiên, vờ như đang vốc toàn lực chiến đấu với Xi Vưu, nhưng trong lòng lại cuộn trào bão tố.
Suốt mấy ngàn năm, trải vô vàn trận đánh, mỗi lần rời vào tình huống nguy
cấp nhất, ngoảnh đầu lại, ông đều trông thấy bóng giáp bạc kia, lần nào
như lần ấy, đều chuyển nguy thành an. Nhưng lần này ngoảnh lại, ông
chẳng hề thấy bóng giáp bạc của nàng, thay vào đó, lại trông thấy cái
chết của nàng.
Đáng lẽ ông nên thấy nhẹ nhõm mới phải, chẳng phải ông vẫn muốn thoát khỏi nàng từ lâu đó sao?
Từ sau khi Hiên Viên lập quốc, cùng với sự ổn định của Hiên Viên quốc, ông càng ngày càng ghét nghe đám khai quốc công thần hở ra là nói: “Chỉ sợ
vương hậu không đồng ý.”; ghét nghe người các tộc xì xào sau lưng rằng
ông phải dựa vào một người đàn bà mới đạt thành đại nghiệp; ghét phải
nhẫn nhịn tính tình cương liệt không khoan nhượng của nàng, sự thông tuệ sắc sảo của nàng… Ông cứ ngỡ rằng mình chẳng hề có tình cảm với nàng,
rằng mình cưới nàng chỉ để hoàn thành hùng tâm tráng chí, vì nể tình
nàng tương trợ mà ban Triêu Vân điện cho nàng. Nhưng, trong khoảnh khắc
chứng kiến cánh phượng kia lìa trần, ông chợt nhận ra, từ nay về sau, dù ông có ngoái lại bao nhiêu lần chăng nữa, cũng chẳng còn bóng giáp bạc
chạy đến bên cạnh, sát cánh chiến đấu cùng ông, đồng sinh cộng tử. Giao
long không kiềm được mà rơi lệ, từng giọt lệ vàng óng do linh lực kết
thành, thoắt đến thoắt đi, không tâm không tích, ngay bản thân ông cũng
chẳng hiểu đó là vì lẽ gì.
Ông đã sớm biết nàng chẳng còn được bao lâu, đáng lẽ ông phải lấy nhẹ nhõm…
Linh lực của Hoàng Đế và Xi Vưu giao kích khiến bầu trời vần vũ mây đen, sấm sét ùng oàng, mưa to gió lớn xối xả trút xuống. Mãnh hổ ngoạm chặt chỗ
bảy tấc trên mình giao long, bất kể nó vùng vẫy quằn quại ra sao cũng
không nhả. Thân mình giao long từ từ thu nhỏ lại, Hoàng Đế đứng trên
lưng Trùng Minh điểu thấy vậy liền tái mặt, thân hình lảo đảo muốn ngả.
Chỉ cần thêm một đòn nữa, Hoàng Đế sẽ phải bỏ mạng. Chợt trước mắt Xi Vưu
hiện lên gương mặt bi ai cùng cực của A Hành, lòng hắng bỗng nhói lên,
đao thế lập tức biến đổi, mãnh hổ nhả giao long ra, giao long liền cuống cuồng bỏ chạy, nào ngờ mãnh hổ há to cái miệng đỏ lòm như chậu máu, cắn một nhát, thân mình giao long đứt làm đôi.
Ngọn kim thương trong tay Hoàng Đế gãy đôi, Hoàng Đế phun ra mấy búng máu, rớt khỏi lưng Trùng Minh điểu.
Xi Vưu mỗi tay cầm một đoạn kim thương, vung tay ném ra, hai ngọn đoạn
thương cắm phập vào ngọn núi, hóa thành hai đỉnh núi hình dạng như ngọn
nến, đối diện với Phản Tuyền thành, dáng nghiêng nghiêng như tế bái.
“Du Võng, lễ vật ta dâng lên ngươi nhân ngày giỗ đây!” Xi Vưu cao giọng thét lớn.
Trong tiếng thét của Xi Vưu, sĩ khí quân Thần Nông chợt tăng vọt, trong khi
quân Hiên Viên bại trận tan tác như núi đổ. Phong Bá và Vũ Sư xuất lĩnh
binh sĩ Thần tộc tấn công hai bên trái phải, Si Mỵ Võng Lượng dẫn binh
sĩ Thần tộc ùa theo truy kích tiêu diệt ngót năm vạn quân Hiên Viên tộc. Ly Chu và Tượng Võng dốc sức cố ngăn sự truy sát của Phong Bá và Vũ Sư, nhưng Tế thủy cắt ngang đường, không cách nào dẫn quân lội qua song
chạy về biên giới Hiên Viên được, mắt thấy toàn quân sắp bị tận diệt đến nơi, chợt một con thanh long bơi lại, kê đầu lên một bờ Tế thủy, đuôi
vắt sang tận bờ bên kia, sống lưng rộng rãi như một cây cầu xanh ngắt,
thanh long bảo Tượng Võng: “Bước trên người ta mà qua sông.”
Té
ra là Ứng Long mất tích bấy lâu, Tượng Võng chẳng kịp cám ơn, vội cõng
Hoàng Đế bị trọng thương đang hôn mê, dẫn các binh sĩ còn lại qua sông,
Ly Chu cùng các chiến sĩ còn lại đoạn hậu.
Tuy Vũ Sư có tài hô
mưa không ai bì nổi nhưng trước mặt loài rồng được xưng là vương của
Thủy tộc, y cũng đành chịu bó tay. Bất kể y dấy lên sóng to gió mạnh đến đâu, Ứng Long đều có cách ứng phó.
Nhờ Ứng Long bất ngờ ra tay
tiếp cứu nên Hiên Viên tộc mới bảo toàn được hơn một vạn chiến sĩ. Trong trận chiến Phản Tuyền lần này, có thể nói Hiên Viên tộc đã thảm hại.
Trong Phản Tuyền thành râm ran tiếng cười tiếng nói, mọi người đều uống tràn lan, mừng thắng lợi.
Chỉ riêng Xi Vưu một mình đứng trên đầu thành, dõi mắt trông về cuối trời Tây.
Vũ Sư và Phong Bá dìu nhau loạng choạng bước lên thành lâu, Phong Bá hỏi
Xi Vưu: “Huynh như vậy là sao hả? Kẻ nào không biết còn tưởng là chúng
ta thua nữa đó.”
Vũ Sư cũng đã say đến bảy tám phần, lè nhè hỏi: “Đến giờ ta vẫn chưa hiểu chuyện này rốt cuộc là sao nữa, rõ ràng chúng ta đã lâm vào đường cùng, nói thực, ta đã nghĩ lần này thua chắc, vậy
mà giờ lại có thể ngồi trong Phản Tuyền thành uống rượu.”
Xi Vưu đáp: “Vừa đúng lúc, để ta dẫn ngươi đi gặp Hình Thiên tướng quân!”
Một đại hán cao chừng một trượng bước ra, Xi Vưu giới thiệu: “Đây chính là
đại tướng quân phụ trách lương thảo của chúng ta, vì tướng quân luôn ở
hậu phương nên các ngươi không có cơ hội gặp mặt.”
Hình Thiên
hỏi Xi Vưu: “Ta thật không sao chịu nổi ngươi nữa, may mà lần này ta
đích thân áp tải lương thảo, giờ gặp nhau ở đây, ta phải hỏi cho ra lẽ
mới được, rốt cuộc ngươi định làm gì vậy? Mọi người đều biết chiến sự ở
Phản Tuyền liên quan tới sinh tử của Thần Nông, chúng ta ở hậu phương
thà nhịn ăn nhịn uống cũng phải gom đủ lương thảo, vậy mà ngươi khi thì
bảo ta đưa ít đi, lúc lại bảo ta đưa chậm lại, lần này rõ ràng ta đã
nghĩ ra cách, mượn được lương thảo từ Đồ Sơn Thị, vậy mà ngươi lại bảo
ta tạm thời giấu cả đi.”
Vũ Sư kinh ngạc hỏi thất thanh: “Chúng ta có lương thảo ư?”
Hình Thiên hừ mũi: “Tuy chúng ta đã mất nước nhưng còn dân, còn đất, chỉ còn người Hiên Viên không tới quấy phá, thứ gì nên trồng cây thì trồng cây, thứ gì nên thu hoạch thì thu hoạch, vẫn tích trữ được chút lương thảo.
Lần này biết không thể thất bại trong chiến dịch Phản Tuyền nên mỗi ngày chúng ta chỉ ăn một bữa cơm, để dành lương thảo đưa ra chiến trường. Ta còn đi cầu khẩn Đồ Sơn Thị, gia tộc giàu có nhất trong Tứ thế gia, Viêm Đế từng có ơn cứu mạng chủ mẫu của họ, nên Đồ Sơn Thị tặng cho chúng ta một ít lương thảo, xem như báo đáp. Ngày sau thì không dám nói chắc,
nhưng lúc này, ta không thể để binh sĩ đói được.”
Vũ Sư và Phong Bá đều trợn tròn mắt nhìn Xi Vưu, Vũ Sư ngỡ ngàng hỏi: “Sao huynh không cho các chiến sĩ ăn no?”
Hình Thiên phẫn nộ: “Nếu chẳng phải năm xưa Viêm Đế đinh ninh dặn ta nghe lời ngươi, ta đã tìm tới hỏi tội ngươi rồi.”
Xi Vưu biết tình tình Hình Thiên thẳng thắng bộc trực, bèn nhẫn nại giải
thích: “Xưa nay Hoàng Đế cầm quân, không nổi tiếng vì dũng mãnh, mà vang danh nhờ mưu lược. Ông ta rất quý trọng binh lực, luôn muốn sắp sẵn mọi chuyện, đánh một đòn dứt điểm, trận Phản Tuyền lần trước chính là một
ví dụ. Lần này nếu Hoàng Đế lấy cứng chọi cứng với chúng ta, thì cũng
chỉ năm ăn năm thua, đôi bên lưỡng bại câu thương, Cao Tân sẽ được hưởng lợi, Hoàng Đế không đời nào chịu như vậy. Thế nên, ông ta lợi dụng việc quân đội Hiên Viên được cung ứng đầy đủ, cứ giằng dai kéo dài để tiêu
hao sinh lực chúng ta, đợi chúng ta hoàn toàn suy kiệt, ông ta chỉ cần
cất tay là dẹp tan, đó là kế sách thứ nhất. Những viên đại tướng bình
thường trù tính được đến bậc này hẳn đã vừa ý rồi, nhưng Hoàng Đế lại
rất cẩn thận, còn phái binh sĩ đào đường hầm để trước sau giáp kích, kẹp chúng ta vào giữa, đó là kế sách thứ hai. Đến đây, có thể coi như cầm
chắc thắng lợi nhưng Hoàng Đế vẫn chưa vừa lòng, lại điều động Thần tộc
bày trận thế tại Phản Tuyền sơn cốc, quyết không để xảy ra điều gì sơ
sót.”
Vũ Sư tán thưởng: “Quả là lợi hại, hết kế này đến kế khác đan cài vào nhau!”
Phong Bá gật đầu: “Kế sách thứ nhất là quan trọng nhất, có điều Xi Vưu còn
lợi hại hơn, rõ ràng Hình Thiên đã mượn được lương thảo từ Đồ Sơn Thị,
vậy mà Xi Vưu vẫn hạ lênh giấu lương đi, để Hoàng Đế ngỡ rằng lương thảo của chúng ta đã cạn kiệt, bấy giờ mới chịu dốc toàn lực tấn công ta.
Bằng không chúng ta đâu thể dễ dàng tiến vào Phản Tuyền thành như vậy?”
Xi Vưu nói: “Không thể nói là ta giỏi cầm quân hơn Hoàng Đế được, ta chỉ
có ưu thế là nghiên cứu được tất cả các trận chiến của ông ta suốt mấy
ngàn năm nay, còn ông ta lại chỉ có thể quan sát những trận chiến của ta trong thời gian này mà thôi, nên ta hiểu về ông ta hơn ông ta hiểu về
ta nhiều. Bởi vậy, ta biết ông ta sẽ không tấn công trực diện một cách
tùy tiện như thế, bèn nghĩ cách phối hợp với ông ta, lấy gậy ông đập
lưng ông. Thực ra, trận chiến này, Hoàng Đế đã thua chính bản thân
mình.”
Vũ Sư và Phong Bá cùng bật cười: “Huynh cần gì phải khiêm tốn? Đây cũng là nhờ huynh khéo léo ứng phó được tất cả những kế sách
của ông ta. Ít ra chúng ta cũng không ai biết được huynh bày ra trò đá
cầu là để thao luyện binh sĩ, nếu không có bọn Si Mỵ Võng Lượng cùng các huynh đệ Yêu tộc giỏi đá cầu, chẳng hiểu sẽ có bao nhiêu chiến sĩ phe
ta phải bỏ mạng nữa.”
Chỉ mình Hình Thiên cố chấp lắc đầu: “Xi
Vưu, nếu Viêm Đế còn sống, nhất định không tán thành cách làm này của
ngươi đâu. Để dụ Hoàng Đế vào tròng, ngươi chẳng nề để tướng sĩ nhịn đói nhịn khát, nếu những binh sĩ hy sinh kia được ăn thêm chút thịt thà,
biết đâu họ lại có sức chiến đấu, không đến nỗi phải chết. Ngươi còn
chính tay đẩy họ vào trận thế của Hoàng Đế để làm mồi nhử, ngươi có biết bao nhiêu binh sĩ đã bị đá đè chết không? Mấy ngàn người đó!”
Thấy Xi Vưu lặng thinh, Hình Thiên lại nói: “Để giành thắng lợi, ngươi không tiếc bất cứ thủ đoạn nào cả, lần này ngươi hy sinh tướng sĩ, lần sau
ngươi định hy sinh ai đây?”
Thấy Phong Bá toan nói gì đó, Xi Vưu liền giơ tay ngăn lại. Hắn bình thản đối diện với Hình Thiên: “Ngươi
từng theo hầu sư phụ, hẳn biết rõ lai lịch xuất thân của ta. Trong mắt
ta không có đúng sai đạo nghĩa, cũng chẳng có lễ nghĩa liêm sỉ, chỉ biết giở mọi thủ đoạn để sinh tồn mà thôi. Nếu bất mãn, ngươi cứ việc ra đi, nhưng nếu ngươi muốn ở lại thì phải tuyệt đối trung thành, bằng không…” Xi Vưu cười lạnh lẽo, “Lang vương thường cắn chết con sói phản bội rồi
quẳng cho bấy sói xé xác ăn thịt, có điều hình phạt của nó vẫn chưa hung tàn bằng ta đâu.”
Thấy Hình Thiên phẫn nộ trợn trừng hai mắt,
Vũ Sư ngỡ hắn định tấn công Xi Vưu, nào ngờ hắn trừng trừng nhìn Xi Vưu
một hồi rồi quay phắt đi, “Ta chỉ trung thành với Viêm Đế thôi.”
Phong Bá và Vũ Sư định nói thêm gì đó, nhưng Xi Vưu đã xua tay, “Ta muốn ở lại một mình.” Hai người đành lui xuống.
Xi Vưu đứng trên đầu thành, dõi mắt về phía trời Tây.
Mẹ A Hành qua đời rồi!
Đến giờ hắn vẫn nhớ như in nỗi đau chết nửa cõi lòng lúc Viêm Đế qua đời,
huống chi A Hành vốn gắn bó với Luy Tổ, nhất định sẽ còn đau đớn hơn.
Hắn chỉ hận không thể bay ngay đến Triêu Vân phong, nhưng đến rồi hắn phải
nói gì đây? Ta đánh bại cha nàng, giết chết mấy vạn tộc nhân của nàng ư? Dùng đôi tay dính đầy máu tươi này ôm lấy nàng an ủi ư?
Tiêu Dao đậu xuống đầu thành, nghiêng đầu nhìn hắn như đang hỏi: Ngươi làm gì thế?
Xi Vưu cười nói: “Ta đang nhớ A Hành.” Nụ cười bất lực vô chừng, khác hẳn vẻ lãnh khốc bên ngoài.
Tiêu Dao lườm hắn rồi kêu lên một tiếng, khẽ vỗ cánh như thể muốn bay đi.
Xi Vưu liền nhảy lên lưng nó, “Nào thì đi!” Bất kể ra sao cũng phải tới trông thấy nàng, mới có thể yên tâm.
Đã tảng tảng sáng, nhưng trong Triêu Vân điện vẫn vắng lặng như tờ, tưởng
chừng nghe được cả tiếng lá rơi, hồ như tất cả mọi người đều đang say
ngủ.
Xi Vưu tìm từ tiền điện đến sương điện cũng chẳng thấy A
Hành, đang lo lắng chợt thấy một bóng người chớp lên, hắn vội vàng lẩn
đi.
“Xi Vưu.” Vân Tang gọi giật hắn lại, “A Hành đang ở trên đỉnh núi.”
Xi Vưu đang định đi, chợt nghe Vân Tang hỏi: “Nghe nói ngươi hiện giờ
thiếu thốn lương thảo, sắp không duy trì được nữa ư?” Tốc độ của Tiêu
Dao quá nhanh, lại đến trước cả khi tin thắng bại truyền về Hiên Viên
thành.
Xi Vưu ngoảnh lại đáp: “Chiến dịch đã kết thúc, Hoàng Đế bị trọng thương, Thần Nông thu lại Phản Tuyền rồi.”
Sắc trời vẫn còn lờ mờ, Vân Tang lại đứng quay lưng về phía ánh sáng nên
không trông rõ được nét mặt, hồi lâu, nàng mới hỏi: “Tiếp sau đây, ngươi định thế nào?”
“Đợi thu hồi được toàn bộ lãnh thổ Thần Nông,
buộc Hoàng Đế đầu hàng, ta cũng hoàn thành lời hứa với hai đời Viêm Đế,
trả hết ơn nghĩa, chừng đó ta sẽ giao lại binh quyền, chuyện về sau là
của Thần Nông vương tộc các người.”
“Vậy còn ngươi?”
“Ta sẽ dắt A Hành vĩnh viễn rời đi.”
Vân Tang trỏ con đường mòn tít tắp sâu trong rừng dâu, “Ngươi men theo con
đường này sẽ gặp A Hành, đêm qua mẫu hậu vừa qua đời, hiện giờ muội ấy
đang vô cùng thương tâm, ngươi đừng khiến muội ấy bị kích động, cũng
đừng nhắc tới chiến dịch.”
“Đa tạ”
Xi Vưu men theo con
đường mòn đầy cỏ dại, thẳng lên tận đỉnh núi. A Hành đang ngồi bó gối
trên sườn núi. Nghe tiếng bước chân, nàng liền ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu, nàng cũng chẳng nói chẳng rằng, chỉ hơi nhích người ngồi lùi vào
trong một chút. Xi Vưu bèn ngồi xuống sát bên nàng.
Phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy mây tía lững lờ tựa một dải lụa, rực rỡ mỏng tan như khói, vầng dương vẫn chưa ló dạng.
Xi Vưu đưa mắt nhìn A Hành, thấy gương mặt nàng vừa tái nhợt vừa gầy vò,
trong ánh sáng nhàn nhạt đầu ngày, dường như trông rõ mồn một mạch máu
xanh ngắt dưới làn da, hắn chợt xót xa khôn xiết, liền quàng tay ôm lấy
nàng.
A Hành tựa đầu vào vai hắn, nước mắt lã chã: “Xi Vưu, từ
nay về sau ta chỉ còn một thân một mình thôi, ta không còn mẹ, cũng
không còn ca ca nữa.”
Xi Vưu an ủi: “Thanh Dương còn đó, sao nàng lại bảo chỉ còn một thân một mình?”
Nỗi bi ai trong lòng quặn lên, A Hành khóc nức: “Đại ca đã chết lâu rồi,
trong trận Phản Tuyền lần trước, chính chàng đã lầm lẫn lỡ tay đánh chết Đại ca. Ta vốn đã sắp đặt mọi chuyện, quyết từ bỏ tất cả để ra đi cùng
chàng, làm Tây Lăng Hành, không làm Hiên Viên Bạt nữa, Đại ca và Thiếu
Hạo đều hứa sẽ giúp ta, Tứ ca cũng ủng hộ hai ta. Nhưng sau khi Đại ca
qua đời, mẫu hậu và Tứ ca không còn chỗ dựa, ta không thể bỏ thân phận
Cao Tân vương phi được nữa. Vì bảo vệ cho mẫu hậu và Tứ ca, ta buộc phải mượn sức Thiếu Hạo, để Thanh Dương tiếp tục “sống.” Tứ ca cũng đem lòng hận chàng, cấm ta và chàng ở bên nhau…”
Qua những lời nghẹn
ngào nức nở ngắt quãng của A Hành, Xi Vưu mới hiểu ra đầu đuôi mọi
chuyện, thì ra, hạnh phúc của hắn đã bị hắn chính tay đánh mất. Trong
lúc hắn hôn mê ở Bắc Minh, A Hành vừa phải gánh nỗi đau tang tóc, vừa
phải lo lắng bảo hộ cho mẫu hậu và Tứ ca. Nỗi xót xa vô hạn trào dâng
trong lòng, chợt một ý nghĩ lóe lên, nếu A Hành không hề thay lòng, chỉ
vì bảo vệ mẹ với Tứ ca mới cùng Thiếu Hạo…
“Vậy Tiểu Yêu là… là… con gái ta ư?” Xi Vưu bỗng cảm thấy tim đập thình thịch, ngay cả lúc
giao đấu sinh tử cùng Hoàng Đế, hắn cũng không căng thẳng và sợ hãi đến
vậy.
A Hành đánh hắn mấy cái, khóc lóc hỏi ngược lại: “Vậy chàng tưởng nó là con ai? Tên nó là Tiểu Yêu, ẩn ý nhắc tới hoa đào, khi ấy
chàng sống chết không rõ, bị kẻ thù săn lùng khắp đại hoang, ta còn có
thể làm sao đây?”
Xi Vưu vừa mừng rỡ lại vừa buồn bã, hắn có con gái, cuối cùng hắn cũng có con gái thật rồi! Nhưng hắn chưa ngày nào
làm tròn trách nhiệm người cha, ngược lại còn vì sát nghiệp của mình,
hại con gái từ khi sinh ra đã rơi vào nguy hiểm. Hắn dịu dàng ôm lấy A
Hành, thì thầm bên tai: “Xin lỗi nàng, cho ta xin lỗi.”
A Hành
phải gánh vác trọng trách, xưa nay vẫn gắn nén bi thương vào lòng. Đại
ca chết, không dám khóc, sợ mẹ và Tứ ca đau lòng; Tứ ca chết, không dám
chết, sợ mẹ và Tứ tẩu thêm đau lòng; giờ đây, cuối cùng nàng cũng vứt bỏ mọi cố kỵ, mặc cho đau thương tràn ra như nước vỡ bờ, vùi đầu vào vai
Xi Vưu khóc thảm thiết.
Xi Vưu cũng chẳng khuyên giải, chỉ ôm chặt lấy nàng, khẽ vỗ vỗ lưng nàng, như thể đang an ủi một đứa bé.
A Hành vừa khóc vừa nói: “Từ nhỏ đến lớn, ta luôn thích ra ngoài chơi,
chuyện gì cũng dám làm, bởi ta biết, dù xảy ra chuyện gì, chỉ cần chạy
về Triêu Vân điện, sẽ có mẹ và các ca ca ở đó. Nhưng tới khi phát hiện
ra gia đình là thứ quý giá nhất, thì đã chẳng còn gì nữa cả. Đại ca đi
rồi, ta còn mẹ và Tứ ca, Tứ ca đi rồi, ta chỉ còn mẹ, chỉ cần mẹ vẫn còn sống thì ta vẫn còn gia đình. Hiện giờ mẹ cũng đã đi rồi, ta đã chẳng
còn gia đình nữa…”
Xi Vưu cúi đầu hôn lên tóc mai nàng, “Nàng
quên ngôi nhà trong núi Cửu Lê mà nàng tự tay bài trí rồi ư? Chúng ta có gia đình của chúng ta. Tuy bấy nhiêu năm nay nàng chưa hề quay lại,
nhưng hàng năm ta đều ở đó sửa sang, cây mướp trong vườn đã leo đầy cả
giàn rồi; ta còn đào một cái giếng, nước giếng mùa đông thì ấm, mùa hè
thì mát, ngày hè nóng nực, bỏ dưa vào giỏ rồi thả xuống giếng ướp lạnh,
ăn vào mát lạnh cả người, phải rồi, ta còn bứng một góc tường vi từ
Thanh Khâu quốc đem trồng trong vườn, hoa nở ra đẹp như ráng chiều vậy,
nàng có thể ngắt lấy chế thành son môi…”
A Hành nước mắt rưng rưng, cảnh tượng lúc Luy Tổ lâm chung lại hiện ra trước mắt.
Mẹ nắm lấy tay nàng dặn dò: “Hành nhi, tuy ta mất đi, nhưng đổi lại, con
có thể được tự do. Nếu con thật sự yêu Xi Vưu, thì đi theo hắn đi.” Nàng kinh ngạc nhìn mẹ, ấp úng mãi không nói nên lời. Mẹ nàng cười yếu ớt:
“Đồ ngốc ạ, con tưởng đến giờ ta vẫn không nhận ra tâm sự của con ư? Chỉ cần Xi Vưu có thể cho con một gia đình, chăm sóc tốt cho con, thì nó là con rể của ta. Hiện giờ, điều duy nhất ta còn chưa yên lòng, là con
đấy!”
Nghe Xi Vưu miêu tả, A Hành tựa hồ trông thấy căn nhà nhỏ
thấp thoáng giữa bóng hoa đào, khu vườn rau cạnh nhà, từng ngọn non loăn xoăn xanh mướt từ giàn mướp rủ xuống, giếng đá xanh trước nhà, cái gầu
nằm lăn lóc bên miệng giếng, hoa tường vi hồng thắm nở đầy quanh giếng,
từng chùm từng cụm, đẹp như ráng chiều…
Dường như mẹ cũng trông thấy căn nhà mới của nàng, đang đứng trước nhà hân hoan mỉm cười.
Mẹ ơi, con có thể tự do đi cùng Xi Vưu thật ư?
Mẹ gật gật đầu với nàng, rồi bóng xa dần, lẫn vào giữa bong hoa đào, vẻ mặt thanh thản, chẳng còn gì vướng bận.
A Hành ngẩng đầu nhìn Xi Vưu, nước mắt chan hòa, chợt khóe môi nàng lại
nở nụ cười rạng rỡ, vui mừng nói: “Mẹ nói kể từ giờ ta đã tự do rồi, mẹ
bảo mẹ bằng lòng nhận chàng làm rể.”
Xi Vưu sững ra, như không
dám tin, một thoáng sau, mới lộ vẻ mừng rỡ như điên cuồng, lắp bắp hỏi:
“Mẹ nàng, mẹ nàng… thật… thật…”
A Hành gật đầu.
Xi Vưu
xưa nay vẫn cho rằng mình không thể được người thân của A Hành chấp
thuận, nên luôn ngang ngược tuyên bố không để tâm, ngờ đâu được người
thân thừa nhận và chúc phúc lại có thể làm người ta yên lòng, khiến niềm hạnh phúc càng tăng lên gấp bội. Xi Vưu mừng đến nỗi nói không nên lời, chỉ biết ngẩn ra nhìn A Hành, cười ngây ngô.
Chân trời đằng
đông chợt bừng lên, A Hành liền ngoảnh lại nhìn, khẽ lẩm bẩm: “Chàng
xem, mặt trời mọc kìa, một ngày mới lại đến rồi.”
Vầng mặt trời
đỏ ối như ngọn lửa cháy rực nhô lên khỏi bể mây cuồn cuộn, rọi sáng cả
đất trời, khiến vạn vật cũng thành ra rạng rỡ.
Xi Vưu ôm chặt lấy A Hành: “Về sau, ngày ngày chúng ta sẽ cùng nhau ngắm mặt trời mọc nhé?”
A Hành nhoẻn cười, gật đầu. Chẳng rõ nhờ ánh nắng của mặt trời, hay vì
hơi ấm của đối phương, cả hai đều thấy thân mình nóng bừng lên.
Nhìn vào đôi mắt sáng long lanh của A Hành, Xi Vưu máy môi toan nói với
nàng: chiến dịch đã kết thúc, nhưng lời ra đến miệng lại không thốt lên
nổi. Lúc này đây, hắn chỉ muốn ôm lấy nàng, yên lặng ngắm nhìn vầng
dương chiếu rọi khắp nơi.
Ráng đỏ như lửa phủ ngập chân trời, đỗ quyên đỏ như lửa nở đầy sườn núi, hai người yên lặng ngồi trên đỉnh
núi, tựa vào nhau, xung quanh là nắng mai tực khói, là hoa dại rực rỡ,
thân mình cả hai tựa hồ đã ngưng kết lại thành đá núi, chỉ khi gió sớm
thổi qua, mới thấy tà áo nhẹ bay bay.
Xi Vưu khẽ hỏi: “Tây Lăng Hành, sau này nàng định làm gì?”
Tây Lăng Hành, cái tên tượng trưng cho hạnh phúc và tự do ấy, đã bao lâu
rổi chưa xuất hiện trong đời nàng? A Hành mơ màng như đang nằm mộng, hạ
giọng thì thầm, “Ta muốn ngày ngày đều được ở bên chàng, nhìn Tiểu Yêu,
Chuyên Húc bình an lớn lên, chứng kiến bọn chúng dựng vợ gả chồng, rồi
cùng chàng hạnh phúc lìa khỏi thế gian này.”
Xi Vưu cười, “Nguyện vọng quá đơn giản, ta nhất định sẽ giúp nàng thực hiện!”
“Thật không?”
“Thật.”
Chợt nghe tiếng Chu Du từ rừng dâu gọi vóng lên: “Vương cơ, A Hành!”
A Hành đứng dậy, nhưng Xi Vưu vẫn nắm lấy tay nàng, quyến luyến chẳng nỡ
rời. A Hành từ từ lùi lại, bàn tay cũng từ từ tuột khỏi tay hắn. Nàng
dặn: “Ta phải lo liệu tang lễ cho mẹ, chàng về trước đi. Giờ này ngày
mai, chàng sẽ nhận được quà ta tặng, coi như… ta đền cho chàng vì bấy
nhiêu năm nay lỡ hẹn.”
Chiều hôm đó, tin tức về trận Phản Tuyền
truyền đến Cao Tân, các đại thần lại được dịp đua nhau tán tụng Thiếu
Hạo anh minh cơ trí, không phái binh tham chiến, bằng không đã bị vạ lây với Hoàng Đế.
Đối mặt với lời xưng tụng của quần hùng, Thiếu Hạo chỉ lặng yên không nói.
Đám đại thần thấy vậy cũng chẳng dám dông dài nữa, Thiếu Hạo bây giờ đã
không còn là kẻ ôn hòa khiêm tốn, lấy lễ đối đãi với bề tôi như trước, y luôn lạnh lùng nghiêm khắc, trầm mặc kiệm lời, vui giận khó lường, thủ
đoạn tàn nhẫn, quần thần mỗi lần bắt gặp ánh mắt y đều run lên sợ hãi.
Thiếu Hạo đang định cho mọi người lui ra, bỗng một tên nội thị hồng hộc chạy vào đại điện, giơ cao một phong thư trắng toát.
Thiếu Hạo khẽ phất tay, phong thư liền bay thẳng tới tay y. Giở ra đọc xong,
sắc mặt y chợt trầm xuống, y trân trân nhìn phong thư, hồi lâu chẳng nói chẳng rằng.
Quý Ly xưa nay chưa hề thấy Thiếu Hạo như vậy, đánh liều hỏi: “Bệ hạ có gì căn dặn chăng?”
Thiếu Hạo đưa phong thư cho y, Quý Ly thoạt nhìn đã biến sắc mặt, là giấy tự
từ hôn của Hiên Viên Bạt, nàng tuyên bố hủy bỏ hôn nhân với Thiếu Hạo,
từ nay trở đi, đôi bên tự do dựng vợ gả chồng, không liên quan đến nhau
nữa.
Thiếu Hạo bình thản nói: “Chuyện này có lẽ thiên hạ đều
biết cả rồi, ngươi đưa cho bọn họ đọc đi, đọc xong thử trình bày ý kiến
xem.”
Mấy vị đại thần xem xong, lòng vô cùng căm phẫn, nhưng
không sao dò đoán được thái độ của Thiếu Hạo, nên chẳng ai dám ra lời.
Quý Ly đành lên tiếng: “Tân bệ hạ, Cao Tân lập quốc mấy vạn năm nay,
chưa từng nghe nói có chuyện như vậy bao giờ, chúng thần cũng không biết nên làm sao mới phải.”
Đám triều thần lao xao gật đầu, xưa nay chỉ nghe nói đế vương hắt hủi phi tử, chưa từng thấy phi tử tự động ra đi bao giờ.
Đột nhiên, một kẻ buông miệng hỏi: “Đây là ý của Hoàng Đế sao? Có phải đằng sau có âm mưu gì không?”
Thiếu Hạo đáp: “Văn thư này mới được ban bố sáng nay thôi, lúc này dù Hoàng
Đế còn sống, cũng đang trên đường trốn chạy từ Phản Tuyền, không thể
phát ra ý chỉ này được, trên này chỉ có dấu ấn của Vương hậu, không có
dấu của Hoàng Đế, hẳn là ý riêng của Hiên Viên vương cơ thôi.”
Triều thần vội tâu: “Vậy thì không tính.”
Thiếu Hạo phán: “Các ngươi lui cả xuống, chuyện này cứ như vậy đi!” Nói rồi, y đứng dậy đi thẳng.
Cả đám triều thần ngơ ngác nhìn nhau, đều lúng túng như gà mắc tóc. Cứ như vậy đi! Là như thế nào đây? Thiếu Hạo xưa nay nói năng rất rõ ràng rành mạch, đây là lần đầu tiên bọn họ nhận được một mệnh lệnh mơ hồ thế này, thật không biết phải chấp hành ra sao nữa.
Thiếu Hạo không quay về Thừa Ân cung mà đi thẳng tới Thừa Hoa cung – phủ đệ của y thời còn là vương tử.
Đẩy cửa phòng ngủ, mọi thứ vẫn y như cũ.
Y còn nhớ, đêm tân hôn mình đã vờ say, lảo đảo đẩy cửa phòng ra. Bây giờ A Hành ngẩng phắt đầu lên, chăm chú nhìn y, tựa hồ nhìn thấu hết thảy tâm tư y.
Chiếc sập kê sát cửa sổ, ngay cạnh án thư, mỗi tối, khi y ngồi trước án thư xử lý công văn, A Hành thường nằm trên sập đọc sách
thuốc.
Cửa sổ trông thẳng ra vườn hoa, hoa cỏ trong vườn đều do
nàng tự tay trồng, nàng vừa nghiên cứu Thần Nông Bản Thảo Kinh, vừa mê
mải thực hành, trồng ra đủ loại kỳ hoa dị thảo, nổi danh khắp Cao Tân
thần tộc, ngay cả phụ vương cũng phải phái cung nhân tới xin giống hoa
cỏ về.
A Hành tâm tư tinh tế, biết y thính mùi nên hằng ngày đều hái hoa tươi đặt lên án thư, khiến y luôn được dịp bất ngờ .
Hương rượu thoang thoảng trong gió đêm đưa lại, là túy hải đường do A Hành
trồng, chỉ chuyên tưới bằng rượu, không thể tưới bằng nước, đóa hoa lớn
mà trắng muốt, khiến người ta vừa ngửi đã say, nàng từng đùa rằng, “Đây
là bậc quân tử say trong các loài hoa, có thể đặt tên là Thiếu Hạo hoa.”
Thiếu Hạo đứng dậy, ra vườn ngắt mấy cành túy hải đường cắm vào bình ngọc
trên án thư, lập tức cả phòng sực nức hương thơm, khiến người ta ngất
ngây chỉ muốn say.
Y ngả người nằm xuống sập, rút trong tay áo ra một chiếc hộp nhỏ bằng thủy ngọc, trong hộp đặt một ngón tay út.
Hôm A Hành không mượn được binh bèn chặt ngón tay bỏ đi, y thực sự không
ngờ Xương Ý và Xương Phó lại lần lượt qua đời, từ đó trở đi, A Hành cũng chẳng trở về Ngũ Thần sơn nữa, sau này, càng không thể trở về.
Thiếu Hạo mê mệt thiếp đi giữa căn phòng nồng nàn mùi rượu.
Ánh nắng chói chang, cỏ xanh mơn mởn, hoa nở rực rỡ. Thanh Dương, A Hành,
Xương Ý đều có mặt, hệt như hôm Xương Ý thành hôn, tất cả túm tụm cười
cười nói nói. Thiếu Hạo thấy vui vẻ vô cùng, nhưng trong lòng lại thấp
thoáng một nỗi đau xót khó gọi thành tên, tựa hồ biết ngày vui ngắn
chẳng tày gang vậy.
Y đem ra hết vò rượu này đến vò rượu khác do mình tự cất, còn luôn miệng giục họ uống, như sợ chậm trễ thì họ sẽ
không uống được.
Thanh Dương cười bảo Xương Ý: “Tên này đổi tính rồi, trước đây muốn uống hớp rượu ngon của hắn phải nài nỉ năm lần bảy
lượt mới được đấy.”
Thiếu Hạo rót rượu cho Thanh Dương, Thanh
Dương vừa nâng chén lên, chợt thấy Vân Trạch đứng dưới gốc phượng hoàng
cười gọi: “Đại ca!”
Thanh Dương lập tức đứng dậy, đi về phía Vân Trạch, ba huynh đệ họ đứng dưới gốc phượng hoàng cười cười nói nói,
chẳng nhìn nhõi gì đến Thiếu Hạo.
Y vội ôm vò rượu chạy tới,
“Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý! Mọi người lại cùng nhau uống rượu đi,
chỉ một lần này thôi mà!” Nhưng bất kể y chạy bao lâu, cũng không chạy
tới được.
“Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý…”
Y đã mệt
đến nỗi mồ hôi đầy đầu, mắt thấy sắp đuổi đến nơi, đột nhiên Thanh Dương rút kiếm ra chỉ thẳng vào y: “Tại sao ngươi không cứu Xương Ý? Chẳng
phải ngươi đã thề rằng ngươi chính là Thanh Dương ư? Đồ tiểu nhân bội
tín bạc nghĩa nhà ngươi!”
Thiếu Hạo không sao tránh né, đành giương mắt nhìn thanh kiếm cắm ngập vào tim mình, “A…”
Thiếu Hạo bừng tỉnh, mồ hôi đầm đìa, nằm giữa căn phòng nồng nàn mùi rượu,
Thiếu Hạo nhất thời cũng chẳng biết bản thân đang ở đâu nữa, đương lúc
mơ màng, y còn tưởng mình đang uống rượu với Thanh Dương, bèn trở mình
gọi: “Thanh Dương, ta vừa gặp ác mộng.” Coong một tiếng, chẳng rõ thứ gì vừa rơi xuống đất, y cúi đầu nhìn, thấy trong miếng thủy ngọc xanh biếc đặt một ngón tay út, đột nhiên, cả người toát mồ hôi lạnh.
Thanh Dương không còn nữa, Vân Trạch không còn nữa, Xương Ý không còn nữa, A Hành cũng đi rồi!
Y ngơ ngác ngẩng đầu, lại chẳng hiểu rốt cuộc muốn nhìn gì, chỉ thấy một
vành trắng lạnh in bóng lên rèm lụa, cô quạnh tịch liêu.
Bốn anh em Si Mỵ Võng Lượng chạy xộc vào phòng hô hoán: “Tin động trời, tin động trời đây.”
Phong Bá nghe hò hét mà ong cả óc, liền nạt: “Nếu không phải tin động trời, ta sẽ phạt mỗi tên ba mươi roi.”
Mỵ dương dương đắc ý cười nói: “Lần này huynh không phạt được bọn ta đâu, quả là tin động trời đó.”
Thấy chúng lại tiếp tục đấu võ mồm với Phong Bá, Xi Vưu bực bội quát: “Nói!”
Nghe tiếng quát, Si Mỵ Võng Lượng tức thì đứng nghiêm, Si nói: “Hiên Viên vương cơ thôi không làm Cao Tân vương phi nữa rồi.”
“Gì cơ?” Phong Bá và Vũ Sư đồng thanh hỏi.
Si nháy mắt với cả hai, như thể nói: Thấy chưa, rõ ràng là tin động trời mà, không ngoa tí nào nhé!.
Xi Vưu chống hay tay lên bàn, chồm người tới trước, nôn nóng: “Các ngươi nói lại nghe nào.”
Mỵ đáp: “Cao Tân vương phi nói mình tài hèn đức mọn, không xứng với Thiếu
Hạo nên tự động từ hôn, từ nay trở đi chỉ còn là Hiên Viên vương cơ, chứ không phải là Cao Tân vương phi nữa, có thể tự do kết hôn.”
Phong Bá nghi hoặc hỏi: “Rốt cuộc Hiên Viên vương cơ có ý gì vậy? Giờ đang là lúc Hiên Viên cần Cao Tân nhất, vậy mà cô ta phải phá hủy mối liên minh với Cao Tân là sao?” Chợt nghĩ lại, y vụt hỏi: “Tin này công bố lúc
nào?”
Si đáp: “Sáng sớm nay.”
“Thảo nào, đây nhất định
không phải ý của Hoàng Đế, mà là Hiên Viên cơ tự tiện đưa ra.” Phong Bá
cười với Xi Vưu, “Đúng là trời giúp Thần Nông rồi, ắt hẳn Cao Tân sẽ coi đây là mối nhục lớn, dẫu Hiên Viên vương cơ muốn rút lời lại cũng chẳng dễ dàng gì đâu.”
Xi Vưu từ từ ngồi xuống, vẻ mặt vừa bi ai lại vừa mừng rỡ. Thì ra đây chính là lễ vật A Hành tặng cho hắn – tự do của nàng!
Nhưng lúc này đây, hẳn A Hành đã biết mọi chuyện rồi?
Từ sáng, sau khi công bố hủy bỏ cuộc hôn nhân với Thiếu Hạo, A Hành vẫn ở
lì trên Triêu Vân phong, thu dọn di vật của Luy Tổ, nàng đang đợi cơn
thịnh nộ của Hoàng Đế giáng xuống.
Mãi đến chập choạng tối mới thấy cung nữ hớt hơ hớt hãi chạy vào thông báo: “Hoàng Đế, Hoàng Đế đến rồi!”
A Hành chậm rãi đứng dậy bước ra ngoài, nàng cứ ngỡ rằng sẽ trông thấy
Hoàng Đế bừng bừng lửa giận, đứng giữa đám thị vệ dương dương tự đắc,
trợn trừng mắt phẫn nộ nhìn nàng. Nhưng ra đến ngoài điện, nàng chỉ thấy Tượng Võng thúc thúc te tua thảm hại, Ly Chu thúc thúc khắp người đầy
máu.
Bắt gặp ánh mắt nghi hoặc của nàng, Tượng Võng và Ly Chu
đồng loạt quỳ xuống: “Xin vương cơ lập tức phái tâm phúc tới Quy khư mời Đại điện hạ xuất quan.”
A Hành nhìn vào điện, thấy đám thầy thuốc đang xúm xít tất bật quang giường: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
Tượng Võng bẩm: “Chúng ta trúng kế Xi Vưu, Hoàng Đế bị trọng thương e rằng
không ổn…phải mời nagy Thanh Dương điện hạ về, gặp bệ hạ lần cuối.”
Như sấm nổ giữa trời quang, A Hành chợt thấy thần trí trống rỗng, đờ người
tại chỗ. Nàng không tin! Phụ vương nàng là Hoàng Đế oai phong lẫm liệt,
chẳng ai dám trái ý kia mà, sao có thể nguy cấp được? Hôm qua nàng còn
láng máng nghe đồn Xi Vưu bị ép đến nổi cạn lương hết đạn, sắp thất bại
rồi mà.
A Hành tức tốc chạy vào đại điện, rẽ đám đông ra, xông đến bên giường, chỉ thấy Hoàng Đế hai mắt nhắm nghiền, sắt mặt tái nhợt.
“Phụ vương, phụ vương…” A Hành không kiềm được gọi ầm lên. Hoàng Đế chợt mở
bừng mắt, mơ màng nhìn A Hành, mỉm cười nhẹ nhõm: “A Luy, ta biết thế
nào nàng cũng đến mà, thấy nàng là ta yên tâm rồi.”
Tượng Võng
và Ly Chu đứng bên nghe thấy, sống mũi bỗng cay xè, lệ tràn lên mắt.
Trước là Vương hậu qua đời, rồi lại tới Hoàng Đế trọng thương, chỉ trong một đêm, Hiên Viên đã chao đảo sắp sụp đổ.
Thứ phi Phương Lôi,
Tứ phi Mô Mẫu đều hay tin chạy đến, Phương Lôi đã hoảng loạn, chỉ biết
khóc nức nở, còn Mô Mẫu vẫn giữ được bình tĩnh, hỏi: “Thương thế ra
sao?”
Đám thầy thuốc đều nhất loạt quỳ xuống, dập đầu lia lịa,
không dám lên tiếng, chỉ có một lão thầy thuốc già đánh bạo lên tiếng
thưa: “Thương thế rất nặng, phải mau mau mời Đại điện hạ về thôi, nếu về nhanh, may ra còn kịp gặp mặt lần cuối.”
Nghe thấy câu đó, Phương Lôi liền ngất xỉu, Mô Mẫu cũng bủn rủn ngồi phệch xuống đất, nhất thời trong điện hỗn loạn cả lên.
A Hành nắm lấy hai cổ tay Hoàng Đế, thăm mạch cho ông, lát sau, nàng rút
ngọc trâm trên đầu xuống, phong bế mạch tức vài ba nơi trên người ông,
đoạn quay ra bảo Ly Chu và Tượng Võng: “Phiền hai vị thúc thúc cho tất
cả mọi người lui ra ngoài.”
Tượng Võng nôn nóng thưa: “Vương cơ, chúng ta phải lập tức mời Thanh Dương điện hạ về ngay, bằng không Hiên
Viên sẽ đại loạn mất.”
A Hành đáp: “Việc cấp bách hiện giờ của chúng ta là phải cứu phụ vương đã.”
Tượng Võng tính tình nóng nảy, lại là đại tướng khai quốc từng theo Hoàng Đế
Nam chinh Bắc chiến giành lấy thiên hạ, trong lúc cấp bách cũng chẳng
lựa lời, cứ thế nói thẳng toẹt: “Đương nhiên phải cứu bệ hạ, nhưng ngay
cả những thầy thuốc giỏi nhất nước cũng đã chẩn đoán rồi, trừ khi Viêm
Đế Thần Nông tái sinh, bằng không làm sao cứu được?”
A Hành hỏi: “Phụ vương trước sau trọng thương hai lần, lần thứ nhất là linh thể bị
trường đao chém trúng, thoạt nhìn có vẻ nghiêm trọng nhưng cũng như đánh rắn vậy, dù chém rắn đứt làm đôi mà không trúng chỗ hiểm, thì vẫn còn
cứu được. Có điều ngay sau đó, phụ vương lại trúng một chưởng vào ngực,
đã thương lại thêm thương, tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc, hai vị
thúc thúc, con đoán có đúng không?”
Tượng Võng nghe nói tới vết
thương đầu tiên liền gật đầu lia lịa, nhưng đến vết thương thứ hai, ông
ta càng nghe càng lộ vẻ quái lạ, mở miệng toan nói.
Ly Chu chợt
ấn vào vai Tượng Võng, kinh ngạc hỏi: “Hành nha đầu, con biết y thuật từ bao giờ thế? Tình hình khi đó đúng như con nói, thoạt đầu Xi Vưu vung
đao chém linh long của Hoàng Đế, tuy linh long bị chém thành hai đoạn,
nhưng Hoàng Đế vẫn tránh được, không trúng phải chỗ yếu hại. Thấy Hoàng
Đế ngã từ trên tọa kỵ xuống, không còn sức tự vệ, Xi Vưu bèn đuổi theo,
bồi thêm một chưởng.”
A Hành đáp: “Nói ra thì dài lắm, tóm lại
hai vị thúc thúc có tin con không? Nếu để cho con an bài mọi sự thì vẫn
còn cứu được phụ vương.”
Tượng Võng không nói gì, chỉ nhìn sang
Ly Chu. Ly Chu liền nói: “Chúng ta không tin con thì còn biết tin ai?
Con cứ tùy ý quyết định mọi chuyện đi.”
“Cần tìm một vị cao thủ
tinh thông trận pháp để bày trận, sau đó con sẽ dùng linh dược giúp phụ
vương điều dưỡng, nếu mọi việc thuận lợi, chắc có thể giữ được tính
mạng. Linh dược con đã có đủ đầy rồi, chỉ thiếu cao thủ bày trận…”
Tri Mạt chợt bước vào nói: “Xin để vi thần bày trận.”
Tượng Võng vô cùng kinh ngạc, mừng đến nỗi thiếu điều nhảy cẩng lên: “Rốt cuộc ông cũng quay về rồi!”
Thuở nhỏ, A Hành đã lớn lên cùng những câu chuyện của Tri Mạt, theo nàng
được biết, ông ta vốn thuộc tầng lớp hạ lưu ở Cao Tân khi quen biết phụ
vương, ông ta rất tinh thông trận pháp, giỏi bày mưu tính kế, từng phò
tá phụ vương lập ra Hiên Viên quốc, là khai quốc công thần bậc nhất Hiên Viện, được tôn vinh là Đế sư. Nhưng sau khi Hiên Viên lập quốc, ông ta
và Hoàng Đế nảy sinh bất đồng, quan hệ ngày càng lạt lẽo, trước trận
Phản Tuyền lần thứ nhất, ông đã treo ấn từ quan, ẩn cư lánh đời.
Luy Tổ rất mực kính trọng Tri Mạt nên trước mặt ông, xưa nay A Hành chưa hề coi mình là vương cơ, vội hành lễ với Tri Mạt: “Mọi chuyện xin trông cả vào bá bá.”
Theo yêu cầu của A Hành, Tri Mạt dốc hết tâm sức
bày bố trận pháp, còn nàng phong ấn thân thể Hoàng Đế vào trận, tạm thời tính mạng Hoàng Đế không có gì đáng ngại, nhưng rốt cuộc có trị khỏi
được hay không, còn phải trông vào y thuật của A Hành và sức khỏe của
Hoàng Đế.
Nửa đêm, A Hành dỗ Chuyên Húc và Tiểu Yêu ngủ xong,
vừa bước ra khỏi phòng, chợt thấy trước mắt tối sầm lại, xuýt nữa ngất
xỉu. Bây giờ nàng mới sực nhớ ra mình đã không ăn không uống suốt một
ngày trời, định tìm gì đó ăn đỡ, nhưng lại thấy nôn nao trong dạ, chẳng
biết phải ăn gì nữa.
Nàng tìm được trong bếp nửa hũ dâu lạnh
chính tay Luy Tổ làm, bèn lặng lẽ ôm vào lòng, ngồi xuống chiếc sập bên
cửa sổ, nhón mấy chum đưa lên miệng, vị dâu lành lạnh man mát, chua chua ngòn ngọt tan ra trong miệng.
A Hành nhắm nghiền mắt lại, tựa
như trông thấy tuyết rơi lả tả, Đại ca vận áo lam đứng giữa một trời
tuyết trắng, mẫu hậu đẩy cửa sổ, nhìn mưa tuyết đầy trời, liền sai cung
nữ đi hái dâu lạnh tươi rói, trong khi nàng và Tứ ca đang nằm dài ra
tuyết cười đùa, chuẩn bị bắc bếp lò hâm rượu, Xương Phó mặc chiếc váy đỏ hồng, vốc tuyết ném vào đầu cả hai. A Hành bật dậy đuổi theo Xương Phó, hai người đều ngả nhào xuống tuyết.
A Hành nhoẻn miệng cười, lại nhón một vốc bia lạnh đưa lên miệng, những mong kéo dài niềm hạnh phúc ngòn ngọt chua chua ấy.
Xương Phó bị huynh muội nàng ảnh hưởng, cũng rất thích ăn dâu lạnh, ba người
chẳng hề ngại rét, còn đứng ngay dưới gốc dâu, vừa cười đùa vừa hái dâu
ăn. Những lúc ấy, Đại ca thường đứng xa xa nhìn lại, dẫu có bắt chuyện, y cũng chỉ ơ hờ vài câu rồi thôi. Nhiều lúc A Hành phát cáu, liền lấy
tuyết ném y, tới chừng y ngoảnh đầu nhìn, nàng liền chạy đến nấp sau
lưng Xương Phó, đại ca rất nghiêm khắc với nàng và Tứ ca, nhưng rất ôn
hòa với Xương Phó.
Đợi Đại ca quay đi, nàng lại tiếp tục dương
oai diễu võ, tay đấm chân đá với bóng lưng y, nhưng hễ y ngoái đầu là
nàng nem nép, còn ngoan hơn thỏ, Xương Phó đứng bên vừa cười vừa ghẹo
nàng.
A Hành cười, lại thò tay vào hũ, nhưng chỉ bốc vào khoảng
không, thì ra nàng đã ăn hết nửa hũ dâu lạnh, chẳng còn sót mảy may! Bao nhiêu mộng mơ đều tan cả rồi!
A Hành lần tay vét nốt bên thành
hũ, cuối cùng cũng vét được mấy mẩu vụn dính trên thành, nàng nhìn nhúm
dâu lạnh còn sót lại, toan đưa lên miệng, nhưng lại tiếc rẻ không đành,
ngẩn người ra nhìn một lúc lâu, mới dè dặt đưa từng mẩu nhỏ vào miệng.
Chua chua ngòn ngọt, lành lạnh man mát.
Nàng ôm lấy chiếc hũ không, nước mắt như mưa.
Xi Vưu đáp xuống giữa sân, nhìn vào thấy trong nhà tối om. Gió động song sa, phát ra những tiếng nức nở nghẹn ngào.
Xi Vưu bước lại gần bên song, tiếng động kia càng lúc càng rõ hơn, hóa ra là tiếng khóc tức tưởi.
Tiếng thổn thức đứt quãng, nhưng lại liên tục cứa vào lòng hắn.
Tay hắn đặt lên cửa sổ, chỉ cần đẩy khẽ một cái là mở được cửa sổ ra, lau
khô nước mắt cho nàng, nhưng hắn quyết không dám dùng đôi tay đẫm máu
này chạm tới nàng, vỗ về nàng.
A Hành áp mặt vào hũ dâu lạnh rỗng không, giọng khản đặc, “Chàng ở ngoài ư?”
“Ừm.”
“Sao sáng nay chàng không nói thực với ta?”
Xi Vưu lặng thinh.
“Ta biết chàng muốn báo thù cho Du Võng, nhưng dù sao đó cũng là người đã sinh ra ta, nuôi nấng ta.”
Xi Vưu máy môi, nhưng chẳng thốt nổi lời nào. Kẻ đả thương Hoàng Đế là
hắn, hạ lệnh đồ sát binh sĩ Hiên Viên là hắn, có giải thích cũng chỉ là
viện cớ, nên hắn không muốn, càng không buồn giải thích.
A Hành khẽ nói: “Chàng về đi, hiện giờ phụ vương đang trọng thương hôn mê, sống chết khó liệu, ta phải chăm sóc cho người.”
Xi Vưu vẫn bình thản đứng đó, nhưng bàn tay đặt trên khung cửa lại run bắn lên, linh khí tràn ra như nước vỡ bờ, không sao khống chế, song cửa lục lăng chạm trỗ từ gỗ đào chợt bừng lên sức sống, lá xanh mơn mởn nhú ra, vô vàng nụ hoa phấn trắng ló ra từ kẽ lá, từ từ xòe nở, chớp mắt, cả
khung cửa chằng chịt cánh nhánh, rực rỡ muôn hoa.
A Hành thần người nhìn hoa đào nở đầy cửa sổ, nước mắt thánh thót rơi, nhỏ lên cánh hoa đỏ thắm.
“Mẹ, sao mẹ còn chưa ngủ?” Tiểu Yêu dụi mắt, lệt xệt bước lại. Thấy A Hành
đang khóc, bé lập tức leo lên sập, ngoan ngoãn lau nước mắt cho nàng,
“Mẹ đừng khóc, ông ngoại sẽ khỏe thôi mà.”
Nghe thấy tiếng bé,
Xi Vưu rung động cả tâm thần, bất giác đẩy cửa sổ ra, vươn tay qua khung cửa rực hoa, toan ẵm con gái, “Tiểu Yêu.”
Nào ngờ, Tiểu Yêu lại hung hăn cắn phập vào tay hắn. Cả ngày nay nghe đám cung nhân kể lể
chuyện Xi Vưu đả thương ông ngoại, Chuyên Húc còn nói Xi Vưu chính là
thúc thúc áo đỏ lần trước đã cứu bé về, nên Tiểu Yêu sinh lòng căm hận
Xi Vưu vô kể.
A Hành vội bế xốc Tiểu Yêu, kéo bé ra, nhưng Tiểu
Yêu vẫn tay đấm chân đá, hét toáng lên: “Đồ xấu xa! Ta phải giết ngươi
báo thù cho ông ngoại.”
Cánh tay Xi Vưu bị Tiểu Yêu rứt mất một
miếng thịt, máu chảy đầm đìa, ướt đẫm vạt hoa đào, nhưng hắn như chẳng
biết đau, cứ ngây ra nhìn đôi mắt thù hận của Tiểu Yêu, thoắt chốc, nhu
tình dào dạt đều hóa thành buốt giá thấu xương, ánh mắt con gái như một
thanh kiếm nhọn hoắt, khoét sâu vào trái tim hắn, khiến hắn đau đến
nghẹt thở.
A Hành vừa bịt chặt miệng con gái, không cho bé la
hét, vừa nhìn Xi Vưu, nước mắt như mưa, “Còn chưa đi đi? Thị vệ sắp tới
bây giờ, lẽ nào chàng muốn đại khai sát giới trước mặt con gái ư?”
Xi Vưu đau đáu nhìn A Hành và Tiểu Yêu rồi cưỡi Tiêu Dao bay vụt lên chín
tầng trời, để gió lạnh cứa vào rát mặt. Xi Vưu ngửa cổ nhìn trời, rống
lên thê thiết như loài sói, hắn không làm gì sai, nàng cũng không làm gì sai, tại sao lại thành ra thế này?
Mất đi linh lực của Xi Vưu,
hoa đào dần tàn héo rơi rụng, những cánh hoa vấy máu lần lượt lìa cành
rơi xuống, như từng mảnh tim vỡ nát. A Hành ôm Tiểu Yêu trong lòng,
chẳng nói chẳng rằng, chỉ thần người ra nhìn những cánh hoa.
Vân Tang, Chu Du nghe thấy tiếng kêu khóc của Tiểu Yêu, liền vội vã dẫn thị vệ chạy tới, nhưng chẳng có gì cả, chỉ thấy A Hành đang ẵm Tiểu Yêu,
ngẩn ngơ ngồi giữa muôn ngàn cánh đào đẫm máu.
“A Hành, sao thế?”
A Hành chậm chạp quay đầu lại, nhìn về phía bọn họ. Thoạt trông thấy
nàng, Vân Tang bỗng giựt thót mình, dung nhan A Hành vô cùng tiều tụy,
ánh mắt buồn hiu hắt, dường như chỉ trong một đêm đã già sọm hẳn đi.