Giữa ngợp trời hoa bay, Xi Vưu một thân áo đỏ như máu đang đứng giữa
rừng đào bên dưới tế đài, lặng lẽ đợi nàng, tựa hồ một ngọn núi sừng
sững, mãi mãi không bao giờ thay đổi, trước kia là thế, bây giờ cũng
thế, sau này vẫn như thế.
[1] Trích trong bài Thoái tướng thi của Tào Hàn. (ND)
Xi Vưu dẫn quân Tây tiến, liên tiếp phá châu kì, vượt qua Hắc hà, đánh
thẳng đến Đôn Vật sơn. Đôn Vật sơn là bức bình phong cuối cùng của Hiên
Viên, mắt thấy Hiên Viên mất nước chỉ còn là sớm muộn, bách tính trong
Hiên Viên thành lại bắt đầu khăn gói chuẩn bị chạy nạn, tướng sĩ cũng
nháo nhác cả lên.
Hiên Viên Bạt lâm nguy thụ mệnh, lĩnh binh
xuất chinh khiến tướng sĩ xôn xao bàn luận, quần thần nhao nhao phản
đối, ngay cả Tượng Võng và Ly Chu cũng vì thế mà toát mồ hôi hột, chẳng
hiểu sao Hoàng Đế và Tri Mạt lại khăng khăng ủng hộ Hiên Viên Bạt.
Hoàng Đế chuẩn bị cho Hiên Viên Bạt một bộ áo giáp tốt nhất, được cải tạo từ
hai bộ giáp của ông và Luy Tổ, ánh vàng ánh bạc hòa lẫn vào nhau, “Con
mặc áo giáp lên đi, dùng uy nghiêm của mình mà chấn nhiếp tướng sĩ và kẻ địch!”
Tang tảng sáng, tướng sĩ đã đứng đông nghịt bên dưới Hiên Viên thành, trật tự đợi lệnh chủ tướng.
Nhìn Hiên Viên Bạt vận khôi giáp bước lên đài, Tri Mạt vẫn thấy thấp thỏm
không yên, liệu cô gái này có làm được như cha mẹ mình chăng? Cô có thể
cứu vãn nổi Hiên Viên quốc mà cha mẹ mình gây dựng nên không?
Theo lời Hoàng Đế, Hiên Viên Bạt vung kiếm lên, lập tức tướng sĩ bên dưới
cao giọng hô vang, nhưng tiếng hô ấy chỉ mang tính nghi thức, chẳng có
nhiệt tình hay khí thế gì cả.
Hiên Viên Bạt lại vung kiếm, tiếng hô bên dưới có to hơn, nhưng vẫn chẳng có chút khí thế hay nhiệt tình nào hết.
Tượng Võng và Ly Chu lo lắng nhìn Hoàng Đế, hiện giờ đổi chủ soái hẵng còn
kịp, nói cho cùng đâu cứ phải mặc khôi giáp của Hoàng Đế và Luy Tổ là có được lòng can đảm của Hoàng Đế và cơ linh của Luy Tổ.
Hiên Viên Bạt trầm mặc nhìn xuống dưới đài, từng gương mặt dưới kia hoặc non nớt, hoặc căng thẳng, hoặc ngỡ ngàng, hoặc lo sợ, nhưng dù có sợ đến đâu
chăng nữa, họ vẫn cầm vũ khí lên, chiến đấu bảo vệ quê hương mình. Lần
đầu tiên, nàng thật sự hiểu được nguyên nhân vì sao mẹ mình ân đoạn
nghĩa tuyệt với cha, nhưng chưa bao giờ hối hận về việc hi sinh tất cả,
cùng Hoàng Đế sáng lập nên Hiên Viên quốc.
Đột nhiên Hiên Viên
Bạt giơ tay gỡ mũ giáp ra, mái tóc đen dài lập tức xõa tung, phất phơ
giữa ánh nắng mai nhàn nhạt. “Ta là nữ nhân, dù giấu mặt dưới chiếc mũ
này, các người vẫn biết ta là nữ, là một người phụ nữ giống như mẹ, như
vợ, như muội muội, như con gái các người vậy, đáng ra phải đứng phía sau để các người bảo vệ, chứ đâu lại đứng trước mặt các người, chỉ huy các
người tấn công một đội quân toàn những nam nhân còn hung mãnh tàn nhẫn
hơn cả các người.”
Tướng sĩ dưới thành đều im phăng phắc, tỏ vẻ
tán thành. Tượng Võng giậm chân giận dữ, “Con bé này điên thật rồi…” lão chỉ hận không thể xông ngay lên đài, cứu vãn cục diện.
Trí Mạt níu Tượng Võng lại, “Đừng nóng.”
Hiên Viên Bạt bắt đầu cởi khôi giáp, vừa cởi vừa ném cả xuống đất, vàng đá
va nhau, phát ra tiếng lanh canh chói tai, phá vỡ bầu không khí tĩnh
lặng.
Thoắt chốc, dưới ánh nắng mai vàng nhạt, chỉ còn một nữ tử vận tấm áo chẽn xanh ngắt, đứng trên đài đôi diện với mấy vạn tướng sĩ.
“Các người tưởng ta muốn đánh trận lắm ư? Không hề! Nhưng phụ thân ta đã
thua Xi Vưu, huynh trưởng của ta cũng thua Xi Vưu, chính là vì nam nhi
các người liên tiếp thua hết trận này sang trận khác, nên ta mới buộc
phải đứng ở đây. Ta không muốn ra trận, nhưng ta sợ quân Thần Nông đánh
thốc đến tận Hiên Viên thành, Hiên Viên thành là nhà của ta, ta không
muốn mất nhà! Ta không muốn con gái ta bị người ta khinh khi lăng nhục,
không muốn cháu trai ta phải quỳ gối trước kẻ thù, không muốn phần mộ
của mẹ ta bị kẻ khác giày xéo. Hôm nay các người cười nhạo ta, nhưng ta
nói cho các người hay, kẻ địch đã đánh đến cửa rồi, nếu các người còn
thua thêm trận nữa, thì mẹ các người, vợ các người, muội muội các người
sẽ phải bước lên đây giống như ta vậy! Nam nhân các người đã không thể
bảo hộ nữ nhân chúng ta, dù chúng ta có phải cần kim thêu lên, cũng
quyết bảo vệ quê hương và con cái mình!”
Hiên Viên Bạt bi thương nhìn xuống tướng sĩ bên dưới, tất cả tướng sĩ đều thẹn đỏ cả mặt, lồng ngực phập phồng dữ dội.
Hiên Viên Bạt lại phóng mắt nhìn trăm họ đang xúm đông xúm đỏ quanh cửa
thành, vận linh lực sang sảng nói: “Đồng Nhĩ quan thất thủ, các người
chạy về Tỏa Vân quan, Tỏa Vân quan thất thủ, các người lại rút về Hắc
hà… Các người chạy mãi, chạy đến tận Hiên Viên thành, giờ còn chưa đánh
mà các người đã định chạy, các người định chạy đi đâu nữa đây? Tiếp tục
chạy sang phía Tây là đến hoang mạc Qua Bích, các người cùng đường rồi!
Hiên Viên, Thần Nông, Cao Tân đều có chiến loạn, trong thiên hạ chẳng
còn nơi đâu yên bình cả, nếu Hiên Viên thành bị phá, các người sẽ trở
thành những kẻ lưu vong, nước mất nhà tan, dù chạy đến đâu cũng không
tìm được chốn dung thân, vĩnh viễn bị người ta kỳ thị và lăng nhục.”
Đám dân đen khoác tay nải đều đều lộ vẻ buồn rầu, hoang mang.
Hiên Viên Bạt lại chỉ những chiến sĩ Hiên Viên đã xếp thành đội hình, “Hiện
giờ bọn họ sắp lên đường, lao ra trước đầu đao mũi kiếm, chính là để giữ cho các người một mảnh đất yên bình, không phải trốn chạy nữa, nhưng
các ngươi lại không hề tin tưởng họ. Ngay cả các người còn không tin họ, vậy họ chiến đấu vì cái gì? Họ dựa vào cái gì để khiến kẻ thù sợ hãi
đây?”
Hiên Viên Bạt lại quay ra cao giọng chất vấn các tướng sĩ, lệ nóng nhòa mi: “Các người đánh trận này chính là đứng ngay trước cửa
bảo vệ cho mẹ già, vợ dại, tỷ muội, con cái của các người, nếu các người thua trận, kẻ địch phá cửa xông vào, các người có quyết tử chiến đến
cùng, thề không lùi bước chăng?”
“Có!” Nỗi hổ thẹn, giận dữ, bi
ai, phẫn nộ, tất thảy đều hòa thành dũng khí, các tướng sĩ đồng thanh hô vang, chấn động cả đất trời.
Hiên Viên Bạt chăm chú nhìn dân
chúng tụ tập đông nghẹt hai bên cửa thành một lượt, đoạn phi thân lên
ngựa, “Xuất phát!” Nói rồi nàng ra roi phi lên trước, tất cả các tướng
sĩ lũ lượt theo sau, vó ngựa rầm rập, bụi tung mù mịt, tiến thẳng về
phía mặt trời lên, khiến buổi bình minh xán lạn rực rỡ cũng nhuốm phần
bi tráng.
Dân chúng hai bên đường đăm đăm nhìn theo đại quân xa
dần, rồi lần lượt từng người bắt đầu trở vào thành, kẻ đang gói ghém
cũng dỡ đồ đạc xuống khỏi lưng ngựa, đặt trở vào chỗ cũ, bác thợ rèn
quát đồ đệ lắp lại bếp lò, đoạn vừa vung búa lên vừa cao giọng rao: “Mọi người phải tự bảo vệ lấy gia đình mình, ai có thể cầm gươm cầm kiếm cứ
đến đây lấy binh khí đi, không mất tiền, không mất tiền đâu!”
Tri Mạt rưng rưng lệ, gật gật đầu cười, quay sang bảo Ly Chu và Tượng Võng, “Con nhỏ A Hành chẳng cần mượn oai danh Hoàng Đế và Luy Tổ làm gì, nó
chính là tiểu vương cơ của Hiên Viên chúng ta, là con gái, là tiểu muội
của mỗi nhà, tất cả tướng sĩ sẽ tử chiến để bảo vệ nó! Bảo vệ nó cũng
chính là họ đang bảo vệ cho tiểu muội, con gái của mình đó!”
Hoàng Đế bước lên đài, cúi xuống nhặt bộ khôi giáp A Hành vứt lăn lóc dưới
đất, phóng mắt trông ra đám bụi hồng mờ mịt cuối trời, lòng ngổn ngang
trăm mối, vừa kiêu ngạo, vừa xót xa, lại vừa hổ thẹn, nhưng chỉ trong
nháy mắt, hết thảy những tình cảm yếu đuối đó đều bị khát vọng chinh
phục Trung Nguyên quét sạch.
Ông ngoảnh sang lệnh cho Ly Chu: “Chúng ta chuẩn bị xuất phát thôi.”
“Vâng!”
Ly Chu quỳ xuống nhận lệnh, Tri Mạt kinh ngạc ra mặt, còn Tượng Võng ngỡ
ngàng nhìn Hoàng Đế và Ly Chu. Xuất phát? Xuất phát đi đâu?
Tin
Hiên Viên Bạt cầm quân truyền tới Thần Nông tộc. Si Mỵ Võng Lượng đều
cười ngặt nghẽo, bỉ bai Hiên Viên quốc đã hết người, sắp sửa mất nước
tới nơi, phải để một người đàn bà lĩnh binh ra trận.
Vũ Sư cũng thắc mắc không hiểu, Hiên Viên vẫn còn mấy vị lão tướng khai quốc đó, sao họ lại để Hiên Viên Bạt cầm quân?
Phong Bá góp lời: “Đừng có coi thường Hiên Viên Bạt, Hoàng Đế xưa nay tinh
minh mưu trí, ông ta chọn Hiên Viên Bạt, nhất định là có cái lý của ông
ta. Chẳng phải bấy nhiêu người tới vời Ứng Long đều không được, nhưng ả
ta chỉ nói một tiếng, Ứng Long đã nhận lời đấy sao?
Vũ Sư lộ vẻ đắc ý, “Vậy chúng ta quyết chiến ở Đôn Vật sơn, để xem ta và Ứng Long ai tài ngự thủy hơn?”
Đôn Vật sơn nhiều sông hồ, có Hà thủy, Hắc thủy, cùng mười mấy dòng sông
lớn nhỏ khác, Ứng Long là vua của Thủy tộc, có bản lĩnh ngự thủy trời
sinh, nhưng trong trận chiến lần trước, vì chủ soái nên y không phát huy được hết năng lực của mình. Lần này Hiên Viên Bạt và Ứng Long quan hệ
không tầm thường, nhất định sẽ trọng dụng y.
Mọi người đều đổ dồn mắt về phía Xi Vưu, đợi hắn định đoạt.
Một hồi lâu Xi Vưu ra lệnh: “Lui!”
“Gì cơ?” Ai nấy đều nhốn nháo bất mãn, vất vả bấy nhiêu năm, bao nhiêu
huynh đệ phải đổ máu, đã đánh đến tận cửa nhà Hoàng Đế, chỉ cần vượt qua Đôn Vật sơn là có thể đánh thẳng vào Hiên Viên thành, sao lại có thể
lui được? Dù bọn họ có bằng lòng thì những chiến sĩ đổ máu chiến đấu
phía sau họ cũng nhất định không chấp nhận.
Xi Vưu lạnh lùng lừ
mắt nhìn khắp lượt, bấy giờ các tướng mới khôi phục được trật tự. Xi Vưu giải thích: “Tướng sĩ Hiên Viên hiện giờ như bầy sói bị dồn đến đường
cùng, Đôn Vật sơn là bức bình phong cuối cùng của Hiên Viên, một khi
thất thủ, cũng đồng nghĩa với quê hương bản quán của chúng sẽ bị chúng
ta giày xéo, người thân bị chúng ta giết hại, vì cha mẹ vợ con mình, bọn chúng không được phép thất bại.”
Vũ Sư phản bác, “Thì chúng ta
ra lệnh không được làm hại thường dân, đồng thời tuyên bố nếu tướng sĩ
Hiên Viên nào đầu hàng nhất định sẽ đối đãi thật hậu, dần dà làm tiêu
giảm ý chí của Hiên Viên tộc, khiến chúng không thể tử chiến.”
Phong Bá im lặng nghĩ thầm, Xi Vưu vốn chấn nhiếp được đám binh lính Hiên
Viên kiêu dũng thiện chiến, là nhờ vào thủ đoạn tàn nhẫn hung mãnh,
nhưng cũng chính vì thế mà khiến tướng sĩ Hiên Viên hận hắn thấu xương,
cừu hận đã nổi lên, lẽ nào mấy mệnh lệnh giả nhân giả nghĩa kia có thể
hóa giải được sao?
Xi Vưu trỏ những căn lều trại đằng sau, nói
tiếp: “Ngươi cho rằng họ dựa vào cái gì mà liều chết viễn chinh? Đừng
đem mấy thứ nhân nghĩa trung hiếu ra đây, đối với bọn họ, bất luận Hoàng Đế hay Viêm Đế, miễn có thể cho họ cơm no áo ấm thì tức là minh quân.
Bọn họ chiến đấu không phải vì Viêm Đế, cũng không phải vì chúng ta, mà
là vì mối thù với Hiên Viên, Hiên Viên đã giày xéo quê hương họ, giết
hại người thân họ, nên họ phải báo thù! Họ dốc lòng phò tá ta, chính là
vì ta có thể báo thù cho họ!”
Vũ Sư cũng là người sáng dạ, thoạt nghe đã hiểu nỗi khổ của Xi Vưu. Nếu Xi Vưu lệnh cho quân lính không
được làm hại người Hiên Viên tộc, e rằng đám người lòng đầy oán hận này
sẽ lập tức quay sang nương nhờ kẻ cho phép họ báo thù.
Xi Vưu
lại nói: “Những giống chim nhỏ, để bảo vệ tổ và chim non, có thể đánh
lui được cả diều hâu, cớ gì chúng ta cứ nhất định phải giao chiến với
Hiên Viên ngay trước cửa ngõ nhà chúng. Chi bằng lùi lại xa xa một chút, đợi chiến ý của chúng suy giảm, bấy giờ tấn công càng dễ.”
Phong Bá và Vũ Sư sực hiểu ý Xi Vưu. Hiện giờ Hiên Viên giống như một kẻ bừng bừng lửa giận, dốc hết sức bình sinh tung ra một cú đấm, bọn họ lắc
người tránh né, để đối phương đánh hụt, chính là đã phong tỏa nhuệ khí
của đối phương.
Trận đầu tiên, Hiên Viên Bạt lệnh cho Ứng Long xuất chiến.
Không phụ sự kỳ vọng của mọi người, Ứng Long ra trận đã đẩy lui được được
quân đội của Xi Vưu, khiến Xi Vưu phải rút lui ba lần, lui đến tận Ký
Châu.
Tướng sĩ Hiên Viên hừng hực khí thế, hân hoan cổ vũ, nhưng Ứng Long quan sát địa hình Ký Châu lại tỏ vẻ lo lắng vô cùng.
Y tấu lên Hiên Viên Bạt: “Thần cảm thấy Xi Vưu lui quân không phải vì sợ
giao chiến với ta ở Đôn Vật sơn, mà là muốn quyết chiến với chúng ta tại nơi này, đây mới là nơi quân Thần Nông có thể phát huy uy lực cao
nhất.”
Hiên Viên Bạt tán thành, “Địa hình này quả là bất lợi cho ta.”
Ứng Long đề xuất: “Chúng ta có thể rút lui theo hướng Tây Nam hơn hai trăm dặm.” Y trỏ địa đồ, “Nơi đây lợi cho chúng ta hơn.”
“Nếu hạ lệnh lui quân là trúng kế của Xi Vưu, tướng sĩ vì nước mất nhà tan
mới bùng lên khí thế chống giặc, lỡ sĩ khí ấy tan tác cả, Xi Vưu sẽ nhất định thừa cơ truy sát. Ngươi quên lời thề của chúng ta trước toàn thể
tướng sĩ khi xuất phát rồi ư? Chúng ta chỉ có một con đường là liều chết xông lên, quyết không lùi bước, đánh bại Xi Vưu thôi.”
Sĩ khí dẽ tan mà khó tụ, nghĩ đến điểm này, Ứng Long giật thót người, gật đầu, “Thần hiểu.”
Chợt nghe bên ngoài thùng thùng tiếng trống trận, một tên lính truyền tin hớt hải chạy vào: “Thần Nông sắp tấn công rồi.”
Hiên Viên Bạt đưa mắt nhìn khắp lượt tướng sĩ xung quanh, bình thản đáp: “Thì đánh đuổi chúng về.”
Ứng Long sai người rúc kèn xung trận.
Từ trận Phản Tuyền lần thứ nhất đến nay, Hiên Viên và Thần Nông đã giao
chiến suốt mười năm, chết mấy chục vạn người, tướng sĩ hai bên đều mang
nặng thù nhà nợ nước, chỉ hận không thể lập tức ăn tươi nuốt sống đối
phương.
Si Mỵ Võng Lượng giăng mây mù khắp chốn, trắng xóa cả
vùng Ký Châu hoang dã, chẳng ai nhìn rõ được lối đi. Tướng sĩ Thần Nông
đều đã được huấn luyện, lấy tiếng chiêng trống của Xi Vưu làm hiệu, tiến lui công thủ đều đâu vào đấy, trong khi đại quân Hiên Viên lạc giữa đám sương mù, chẳng biết đâu là phương hướng nữa, tức thời bị tướng sĩ Thần Nông đuổi tận giết tuyệt.
Ứng Long liền lênh cho Ly Oán, kẻ
chuyên gọi gió, nổi gió lên xua tan mây mù. Nhưng trận gió của Ly Oán
đụng phải Phong Bá, chẳng khác nào làn gió xuân Giang Nam hây hẩy đụng
độ với cơn gió bắc cuồng nộ ngoài Mạc Bắc, Ly Oán chẳng xua tan được mây mù đã đành, còn bị thương dưới tay Phong Bá.
Ứng Long không
quan sát được chiến trường, chỉ lên tục nghe thấy tiếng rú thảm thiết
của tướng sĩ Hiên Viên, cuống quá toan đánh chiêng thu quân. Các tướng
sĩ chưa hề qua huấn luyện, không thể dựa vào tiếng chiêng mà phán đoán
được phương hướng rút lui, thậm chí còn có thể đụng độ với quân mình, tử thương vô số, nhưng ít nhất cũng tránh khỏi cảnh toàn quân bị diệt.
Thấy y chuẩn bị đánh chiêng, hiên Viên Bạt chợt ngăn lại: “Đợi đã, ngươi giúp ta làm một trận mưa phùn lâm thâm đi.”
“Hơi mưa sẽ khiến mây mù thêm dày đặc, tướng sĩ phe ta càng khó tác chiến.”
Hiên Viên Bạt liền đưa cho y một gói phấn, “Hòa phấn này vào nước mưa, Phong Bá sẽ phải nổi gió lên, đến chừng đó, mây mù tự khắc tiêu tan.”
“Nhưng tướng sĩ của chúng ta trúng độc thì sao?”
“Ta đã cho giải dược vào cơm nước của họ từ trước rồi.”
Ứng Long theo lời Hiên Viên Bạt, chuẩn bị làm mưa, Vũ Sư ngửi ngửi, phát
hiện thấy thủy linh trong không khí có vẻ khác thường vội thốt, “Lạ
thật, mây mù giăng kín thế này, quân Hiên Viên đã khốn đốn lắm rồi, sao
chúng còn định làm mưa?”
Xi Vưu phóng mắt về phía Tây Nam thấy A Hành vận áo xanh ung dung đứng trên lưng A Tệ, vội hạ lệnh: “Trong mưa
có độc, Phong Bá, mau nổi gió lên.”
Phong Bá vâng lệnh nổi gió, xua tan hết mưa phùn cùng sương mù.
Thoạt trông thấy đường, A Hành lập tức cầm tù và, vừa thổi vừa xông lên phía
trước, tướng sĩ Hiên Viên trông thấy một nữ tử yếu đuối xông xáo dẫn
đầu, nỗi hổ thẹn át hẳn niềm hoang mang do sương mù đem lại, họ nhất
loạt xông lên theo nàng.
Thế trận của Thần Nông lập tức bị sĩ
khí vô tiền khoáng hậu xé tan, Xi Vưu đành đánh chiêng thu binh. Tướng
sĩ Hiên Viên đuổi theo truy kích, nhưng đến gần bãi cỏ, chợt A Hành ra
lệnh ngừng lại, thu quân quay về.
Si Mỵ Võng Lượng chửi với theo: “Ả đàn bà thối tha, sao không đuổi nữa đi?”
A Hành quay lại, nửa cười nửa không đáp: “Ta chưa ngu đến mức đưa chân
giẫm lên lưỡi đao đâu.” Tất cả cây cỏ nơi này đều nằm trong phạm vi
khống chế của Xi Vưu, chỉ cần hắn thúc động linh lực, toàn bộ sẽ biến
thành đao kiếm.
Giữa màn sương mù, Xi Vưu thắng, đem quân truy kích, A Hành thắng. Mỗi bên tử thương hơn ngàn người, xem như hòa.
Võng hậm hực nhìn theo bóng A Hành, gãi đầu lầm bầm: “Sao ả biết Đại ca thi
thuật với đám cỏ này nhỉ?” Chợt gã vỗ đùi đánh đét, quay sang hỏi Xi
Vưu, “Sao huynh biết ả hạ độc vào nước mưa? Trên đời được mấy ai tinh
thông dược tính đến thế.”
Phong Bá trước đây từng gặp A Hành,
biết nàng từng là tình nhân của Xi Vưu, vừa rồi khi mây mù tan đi, trông thấy người dẫn đầu tướng sĩ Hiên Viên truy sát bọn họ chính là nàng, gã tức thời ngây ra, bây giờ mới hay nàng là Hiên Viên vương cơ, cũng là
Cao Tân vương phi, bất giác gã đưa mắt nhìn về phía Xi Vưu, thấy rõ mồn
một vẻ đau đớn lóe lên trong mắt hắn.
Xi Vưu chẳng buồn đáp lời
Võng, đứng phắt dậy bỏ đi. Mỵ thì thào nhỏ như tiếng muỗi kêu: “Ta nghe
đồn Xi Vưu và Hiên Viên Bạt có tư tình thật đó.”
Phong Bá lần đầu tiên nổi giận, hầm hầm cảnh cáo: “Sau này kẻ nào còn dám nói bậy, ta sẽ chém đầu kẻ đó.”
Phong Bá ra ngoài tìm Xi Vưu, thấy hắn đang ngồi một mình trên cao, lặng lẽ trông về phía doanh trại Hiên Viên.
Trời đã ngả tối, mưa tuyết bắt đầu trút xuống, nhưng hắn chẳng hề có ý định
tránh đi, cứ ngồi thẫn thờ ngóng nhìn căn lều trại đằng xa, mặc cho
tuyết đổ đầy người. Trong đêm tối, gió sắt se, tuyết lả tả, ánh đèn
trước doanh trại leo lét phản chiếu sơn hà tan tác, bóng lưng Xi Vưu
cũng toát lên vẻ tĩnh mịch thê lương vô hạn, khiến Phong Bá không khỏi
cảm khái trước nỗi bất lực của kẻ kiêu hùng.
Gã bước đến sau
lưng Xi Vưu, cười cười rút ra một vò rượu, “Sao huynh lại ngồi đó? Đến
đây, đến đây, uống rượu nào! Ai gục trước kẻ đó là rùa đen!” Nam nhân
thường nói ít làm nhiều, thà đổ máu chứ không rơi lệ, Phong Bá không
phải là kẻ biết an ủi, Xi Vưu cũng chẳng phải người dễ dàng thổ lộ tâm
can, gã chỉ có thể cùng Xi Vưu say túy lúy một trận mà thôi.
Cả
hai nốc rượu như nước lã, chẳng mấy chốc Phong Bá đã say đến bảy tám
phần, đùa cợt hỏi: “Nghe nói các cô nương Cửu Lê đều xinh đẹp đa tình,
đợi chiến tranh kết thúc, đệ phải tới kiếm cô vợ mới được.”
Xi Vưu lắc đầu, lại hớp một ngụm rượu, “Đệ thì không được, con gái Cửu Lê không thích người đẹp, chỉ ham người biết hát thôi.”
“Ai bảo huynh đệ không biết hát?” Phong Bá hắng giọng rống lên loạn xạ, làm Xi Vưu bò lăn ra cười.
Xi Vưu thẫn thờ nhìn vào màn đêm, thoáng trầm mặc, đoạn cất giọng hát.
“A ối à ối a
Mắt ta mình cứ khoét ra
Để cho máu thấm đầy tà áo xanh
Ví bằng lọt được mắt mình
Máu như hoa rải đầy cành cũng cam.
A ối a ối à
Tim ta mình cứ móc ra
Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa
Ví lòng mình có bóng ta
Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi.
Các anh em
Một mai ta chết đi rồi
Đường nàng đi đó, xin vùi xác ta
Dù nàng đi khắp gần xa
Đều ngang qua nấm mộ ta bên đường.”
Tiếng ca thê lương vô hạn văng vẳng lan xa, giữa cảnh sông núi tiêu điều,
quốc gia nghiêng ngả này lại càng khiến người ta rung động. Phong Bá
tỉnh hẳn rượu, sững sờ nhìn Xi Vưu, hồi lâu mới hỏi: “Khúc tình ca tuyệt như vậy, phải hát đáp lại thế nào?”
Xi Vưu hờ hững đáp: “Có hai cách hồi đáp, một cách là: “Nếu ta không quên được bóng ngươi, ta sẽ tự móc mắt mình ra; nếu ta không quên được dáng ngươi, ta sẽ tự khoét tim
mình ném đi”; cách thứ hai là…” Xi Vưu ngập ngừng không nói, chỉ đăm đăm ngóng về phía ngàn ánh đèn sáng rực đằng xa.
Mưa hắt hiu, gió
hắt hiu, trời đất ủ ê, non sông quạnh quẽ, Phong Bá chợt cảm thấy anh
hùng khí đoản, nhi nữ tình trường, giáo vàng ngựa sắt mấy trăm năm cũng
mệt mỏi quá rồi. Đợi cuộc chiến này kết thúc, bất kể là thua hay thắng,
gã cũng phải kiếm cho mình một cô gái, cùng sống vui vẻ một đời thôi.
Giữa cảnh mưa gió tiêu điều, chợt một giọng ca lanh lảnh từ đâu đó cất lên:
“Cây cao ngất ngưởng giữa non xanh
Vấn vít dây mây quấn quýt cành
Cây níu chặt mây, mây quấn quýt
Khăng khăng khít khít giữ vẹn tình.
Vào sinh ra tử bạn cùng nhau
Sống chết bên nhau đến bạc đầu
Cây chết mây còn còn quấn quýt
Cây còn mây chết chẳng rời nhau.”
Phong Bá dỏng tai nghe hồi lâu, chỉ toàn nghe thấy cái gì sống sống chết
chết, cảm giác không lành, nhưng Xi Vưu lại tươi cười rạng rỡ, vỗ vai
Phong Bá, “Về kêu các huynh đệ lại cùng uống đi.” Có vẻ tâm trạng đã khá lên nhiều.
Phong Bá chẳng hiểu mô tê gì, nhưng đã biết, Xi Vưu
đã đợi được câu trả lời mà hắn muốn. Phong Bá vừa đi vừa ngoảnh lại
trông, chỉ thấy non sông tiêu điều, mưa gió hắt hiu, khói lam mờ mịt,
đèn lửa lập lòe.
Giữa thời loạn lạc này, tìm đâu ra chốn bình yên?
Nhưng sống giữa thời loạn này, có được một người thấu hiểu lòng mình, cùng
sống cùng chết thì dẫu phải da ngựa bọc thây, say khướt sa trường, cũng
coi như không uổng một đời.
Thần Nông và Hiên Viên đã giao chiến mấy bận, đôi bên đều có thương vong, mà vẫn chưa phân thắng bại.
Xi Vưu quỷ kế đa đoan, bày đủ mưu mẹo thật giả mạnh yếu để dụ địch giết
địch. Trong mắt kẻ khác, những kế sách ấy đều được coi là tuyệt diệu,
nhưng A Hành chỉ thoáng nhìn là phát hiện ra ngay. Có điều, A Hành cũng
chẳng làm sao chế ngự được Xi Vưu, bất kể nàng làm gì, hắn thoạt trông
là đoán được ngọn nguồn, lập tức phản ứng lại.
Đôi bên là hai
địch thủ hiểu nhau nhất dưới gầm trời này, nhắm mắt cũng đoán được chiêu đòn của đối phương. Cứ đánh mãi về sau, không chỉ bọn họ, mà cả tướng
sĩ cũng nhận ra, trận chiến này không thể phân thắng bại bằng mưu kế
được, họ buộc phải dựa vào thực lực bản thân, quyết một trận sống mái.
Nhất định trận đánh đó sẽ rất ác liệt, dù bên nào thắng đi chăng nữa,
cũng chẳng tránh khỏi thương tổn nặng nề.
Nỗi lo âu đè nặng
trong lòng tướng sĩ, ngay cả Phong Bá ngày thường vẫn hi hi ha ha cũng
sa sầm mặt mày, chỉ mình Xi Vưu là nhàn tản ung dung, giữa mày mi thấp
thoáng vẻ ngông cuồng bất chấp mọi thứ. Phong Bá thật sự không sao hiểu
được, theo gã thấy, Xi Vưu phải là kẻ bi thương nhất mới đúng.
Thăm dò suốt mấy tháng, cuối cùng Ứng Long hào hứng báo cáo với Hiên Viên
Bạt, tuy một dải Ký Châu hoang dã chẳng có sông ngòi gì trên mặt đất,
nhưng sông ngầm lại rất nhiều, y đã tìm được một kế sách tuyệt diệu, có
điều cần một vài tướng sĩ Thần tộc biết khống chế thủy linh giúp đỡ.
Hiên Viên Bạt đáp: “Ngươi tiếp tục chuẩn bị đi, ta sẽ tìm mấy tướng sĩ Thần tộc giỏi ngự thủy.”
Nàng viết thư cho Hoàng Đế, xin ông nhờ Thiếu Hạo phái binh.
Cao Tân lắm sông ngòi, có không ít tướng sĩ Thần tộc giỏi ngự thủy, Thiếu
Hạo đã hứa với Hoàng Đế sẽ cùng Hiên Viên đối phó Xi Vưu, đổi lại Hoàng
Đế sẽ không tiếp tay cho Trung Dung ở mạn Tây Nam tự lập làm vua. Hiện
giờ chính là lúc Thiếu Hạo thực hiện lời hứa.
Mấy ngày sau, Hiên Viên Bạt và Ứng Long đang bàn việc trong trướng, bỗng thị vệ dẫn theo
một người vén rèm bước vào, kẻ vừa tới từ đầu đến chân đều mặc đồ trắng, chính là phục sức của Cao Tân vương tộc. Hiên Viên Bạt thoáng cau mày,
lẽ nào Thiếu Hạo chỉ phái một người này đến thôi ư? Ứng Long cũng ngấm
ngầm thở dài thất vọng, từ trên người kẻ mới đến, y chẳng cảm thấy linh
lực mạnh mẽ gì cả.
Người đó thưa với Hiên Viên Bạt: “Tại hạ Tử Thần, phụng mệnh bệ hạ tới đây có chuyện muốn nói riêng với vương cơ.”
Hiên Viên Bạt lạnh nhạt: “Ngươi tới đây là để trợ giúp Ứng Long tướng quân, mọi sự cứ nghe theo tướng quân điều khiển.”
Hình như kẻ đó lặng lẽ thở dài, dung mạo y đột ngột biến đổi, ngũ quan đoan
chính, nhưng ánh mắt lại lạnh lẽo vô chừng, đứng nguyên tại chỗ mà đã
toát lên khí độ bất phàm, không giận mà uy.
Chính là Cao Tân Thiếu Hạo!
Ứng Long kinh ngạc, lập tức đứng phắt dậy, cuống quýt hành lễ.
Thiếu Hạo chỉ bình thản hỏi: “Tướng quân thấy ta có thể trợ giúp được chăng?”
Ứng Long ghe hỏi gật đầu lia lịa. Tuy người trên đại hoang Cộng Công là
Thủy thần, nhưng trong mắt Ứng Long, Thiếu Hạo mới là kẻ ngự thủy giỏi
nhất thiên hạ, có điều Thiếu Hạo quá nổi danh ở những phương diện khác,
nên người đời đã quên khuấy mất rằng, y cũng tu luyện thủy linh.
Hiên Viên Bạt nhìn xoáy vào Thiếu Hạo: “Bệ hạ không bận công vụ trong nước ư?”
“Trung Dung cũng không phải là đại họa gì, chẳng qua ta không muốn giết hại
lẫn nhau, tiêu hao binh lực để Hoàng Đế rung đùi ngồi hưởng lợi, nên mới tốn chút thời gian thu phục quân đội của hắn đó thôi. Hiện giờ Xi Vưu
mới là mối họa lớn nhất, nếu hắn còn thắng thêm một trận nữa, ắt Cao Tân nguy mất.”
“Đa tạ bệ hạ đích thân tới tận nơi trợ giúp, có điều đây là doanh trại Hiên Viên, tuy bệ hạ là quốc vương Cao Tân, nhưng
cũng phải tuân theo quân lệnh.”
“Ta nói rồi đấy thôi, ta tên Tử Thần, phụng mệnh bệ hạ tới đây, mọi sự xin nghe vương cơ điều khiển.”
“Ứng Long sẽ trao đổi với ngươi, ngươi cứ nghe lệnh y là được.” Hiên Viên Bạt đứng dậy toan đi.
“A Hành.” Thiếu Hạo giơ tay nắm lấy nàng kéo lại.
“Mạt tướng sực nhớ ra mình còn có việc chưa làm.” Ứng Long lập tức cúi đầu, rảo chân bước ra ngoài.
“A Hành.” Thiếu Hạo chẳng biết nói gì, nhưng cứ một mực nắm lấy A Hành không buông.
A Hành rút ra một tấm khăn lụa, bên trên đầy chữ viết bằng máu: “Bệ hạ mô phỏng nét chữ của ta, gọi Xi Vưu tới Tuân sơn cứu ta và Tứ ca ư?”
Thiếu Hạo nhìn những hàng chữ giàn giụa máu kia, bất giác lại đưa mắt về phía ngón tay út bị cắt cụt của nàng, thân mình khẽ run lên.
Thấy y
không phủ nhận, A Hành mỉm cười: “Cảm ơn bệ hạ. Thực ra, ta đâu còn oán
hận bệ hạ nữa. Nói cho cùng, bệ hạ cũng chẳng phải Đại ca ta, ta cầu bệ
hạ cứu Tứ ca, đúng là đã làm khó bệ hạ rồi.”
“Ta đã thề sẽ săn sóc nàng và Xương Ý, là ta không giữ trọn được lời thề với Thanh Dương, nàng oán hận ta cũng phải.”
A Hành thở dài, “Thuở còn thiên thiếu, chúng ta cứ ngỡ rằng chỉ cần mình
muốn thì chuyện gì cũng có thể làm được. Về sau mới biết, chúng ta không thể nào giũ bỏ được gia tộc và xuất thân của mình. Bệ hạ là Cao Tân
Thiếu Hạo, nhưng chẳng thể cứu nổi người mà mình muốn cứu, ta là Hiên
Viên Bạt, nên người ta không muốn giết mà vẫn không thể không giết. Có
những chuyện thực lòng rất muốn làm, nhưng chẳng thể không làm. Đến ta
còn như thế, nữa là bệ hạ, những chuyên bệ hạ không thể làm, hay không
thể không làm, hẳn còn nhiều hơn ta.”
Xưa nay Thiếu Hạo chỉ mong A Hành lượng thứ, vậy mà đến hôm nay, khi A Hành đã cảm thông và thấu
hiểu cho nỗi khổ của y, y lại chẳng hề thấy vui mừng, ngược lại càng
thêm bi ai chồng chất. Thanh Dương và y đều muốn bảo vệ A Hành, để nàng
không trở nên như bọn họ, nhưng cuối cùng, A Hành vẫn trở thành một
người như họ. Nếu Thanh Dương còn sống, trông thấy A Hành vận khôi giáp, cầm kiếm xông trận, hô hào thiên quân vạn mã, chẳng hiểu sẽ đau đớn đến nhường nào.
Bọn họ bảo hộ được cho cả thiên hạ, nhưng lại không thể che chở nổi người thân cận nhất bên mình!
“A Hành…”
Khóe mắt nét mày A Hành toát lên vẻ mệt mỏi khôn cùng, nàng cúi mặt nhìn
xuống tay Thiếu Hạo: “Buông tay đi, tuy ta không còn hận bệ hạ nữa,
nhưng chúng ta cũng chẳng thể quay về được ngày xưa đâu. Chính vì quá
hiểu bệ hạ, nên ta biết rõ chúng ta vĩnh viễn không thể làm bằng hữu
được, ai bảo bệ hạ là Cao Tân Thiếu Hạo, còn ta lại là Hiên Viên Bạt!”
Thiếu Hạo lạnh buốt cả cõi lòng, toàn thân rời rã, bàn tay từ từ thõng xuống.
A Hành vén rèm lên, đi thẳng.
Đêm đã khuya, trừ những binh sĩ đi tuần, còn lại mọi người đều chìm trong giấc ngủ.
A Hành dẫn theo A Tệ đi khảo sát thực địa, trên sườn núi lác đác mấy ngôi nhà hoang, có lẽ chủ nhân đã bỏ mình trong chiến hỏa, hoặc chạy nạn từ
lâu, bỏ lại vườn không nhà trống. A Hành lại gần, trông thấy cội đào
trong sân đã nở hoa rực rỡ, những đóa hoa đào rung rinh đùa trước gió
xuân, chỉ không biết người trồng giờ đã nơi đâu?
Thì ra, thấm
thoát đã đến mùa hoa đào tự lúc nào, Ký Châu cách Cửu Lê không xa, hẳn
hoa đào ở Cửu Lê cũng đang nở rộ, chẳng hiểu có còn rực rỡ như năm cũ?
A Hành chợt nảy ra một ý, bèn bảo A Tệ: “Chúng ta đi Cửu Lê.”
Cả thôn bản vắng tanh vắng ngắt, thỉnh thoảng mới bắt gặp vài ba thiếu nữ
trang điểm lộng lẫy đang thẫn thờ ngồi trên hiên nhà, chẳng một ai đi dự tết Khiêu Hoa.
A Hành tiến vào sơn cốc, thấy hoa đào đã nở đầy
sườn núi, nhưng lời ca tiếng hát bặt tăm. Nàng ngỡ ngàng không hiểu,
những thiếu niên thiếu nữ ấy đi đâu cả rồi? Chẳng phải vào ngày này, họ
vẫn vây quanh đống lửa, ca hát tỏ tình ư?
Chợt nghe tiếng ca văng vẳng đưa lại, A Hành bèn lần theo giọng ca mà tìm tới.
“Canh một em thổi tắt đèn
Lên giường nằm đợi chàng tìm đến thăm
Canh hai đảy cửa ngắm trăng
Chong chong mắt ngóng mà không thấy chàng
Canh ba xé rách trướng màn
Cởi bỏ quần áo chẳng mang thứ gì
Canh tư kẹt cửa ngoài kia
Vội vàng xuống đón chàng thì ở đâu
Canh năm gió mát đầy lầu
Chờ suốt đêm trắng nào đâu thấy chàng
Chỉ mong chàng ở chiến trường
Mau đánh thắng trận, giong cương quay về.”
Người đang ngồi dưới gốc đào cao giọng hát hóa ra là một phụ nữ tóc mai bạc
trắng. Trông thấy A Hành, chị ta cười: “Cô là người nơi khác tới xem tết Khiêu Hoa của chúng tôi ư? Mấy năm nữa cô hẵng tới, hiện giờ đàn ông
đều ra trận cả rồi, mấy năm nữa mới về.”
A Hành dè dặt hỏi: “Chị đợi tình lang bao năm rồi?”
“Mười sáu năm.”
A Hành lặng người đi. Những thi thể vô danh phơi đầy đồng hoang kia, có
lẽ đã bị mưa gió dòi bọ róc rỉa chỉ còn trơ xương trắng, nhưng trong
lòng những người con gái, họ vẫn là tình lang rất mực thương yêu. Tháng
tháng năm năm, năm năm tháng tháng, những người con gái ấy đã đợi đến
bạc cả tóc mai, còn những nắm xương khô kia vẫn phơi đầy nội cỏ, dãi
nắng dầm mưa, mặc cho vó ngựa giày xéo.
Bắt gặp ánh mắt xót xa
của A Hành, người phụ nữ bỗng quát lên: “Chàng sẽ về! Chàng nhất định sẽ về mà…” Càng về sau, giọng chị ta càng nhỏ lại, dần dần chuyển thành
lẩm nhẩm một mình: “Chiến tranh sẽ kết thúc, nhất định sẽ kết thúc thôi! Cuộc chiến giữa Thần Nông và Hiên Viên sắp kết thúc rồi, chàng nhất
định sẽ về…”
A Hành chợt lạnh buốt cõi lòng, thì ra, chốn đào
nguyên ngoài cõi thế này trở nên tiêu điều hoang vu như vậy đều là do
bọn họ! Đối với bách tính hai tộc, ai thắng ai thua cũng chẳng có gì
quan trọng, quan trọng nhất là chiến tranh mau mau kết thúc, để dân
chúng được an cư lạc nghiệp.
Nàng nghiêm trang hứa với chị ta: “Phải rồi, chiến tranh nhất định sẽ kết thúc thôi.”
A Hành băng qua rừng đào, đi thẳng ra sau núi, tế đài trắng toát vẫn sừng sững giữa rừng hoa.
Cỏ xanh mơn mởn, cánh đào tả tơi, A Hành bước lên thềm đá thẳng tới tế
đài, dưới chân dày đặc những cánh hoa rơi. Thấy một chiếc chuông gió
bằng xương thú nằm chơ vơ dưới đất, nàng liền cúi xuống nhặt lấy, treo
lại lên mái hiên.
Khẽ rung chuông, những âm thanh tinh tang êm ái lại vang lên.
Sáu mươi năm đằng đẵng trên Ngọc sơn cũng trôi qua trong những tiếng tinh
tang thế này, rõ ràng đã động lòng, nhưng lại thà chết không thừa nhận;
để hắn lại bản Xi Vưu, dứt áo ra đi trong những tiếng tinh tang thế này; sống giữa bản Đức Ngõa cách đó không xa, rõ ràng vẫn canh cánh lo cho
hắn, nhưng lại không chịu đối diện với lòng mình…
Tinh tang tinh tang, tinh tinh tang tang…
Tiếng chuông vẫn thế, mà thấm thoát đã mấy trăm năm. Dung nhan nàng vẫn như xưa, nhưng cõi lòng đã già cỗi mệt nhoài rồi.
A Hành đứng lặng hồi lâu, vừa định quay về, chợt trong khoảnh khắc ngoảnh đầu, nàng bỗng thấy cả đất trời như ngưng đọng lại…
Giữa ngợp trời hoa bay, Xi Vưu một thân áo đỏ như máu đang đứng giữa rừng
đào bên dưới tế đài, lặng lẽ đợi nàng, tựa hồ một ngọn núi sừng sững,
mãi mãi không bao giờ thay đổi, trước kia là thế, bây giờ cũng thế, sau
này vẫn như thế.
Xi Vưu cười rạng rỡ, dang tay ra với nàng, A
Hành cũng nhoẻn cười theo, chạy xuống tế đài, băng qua cả trời hoa bay
lả tả, hướng về phía Xi Vưu.
Hai bàn tay đan chặt vào nhau, cả hai nhìn nhau cười.
Sao sáng đầy trời, hoa như gấm đoạn, đều không sánh được với nụ cười chếnh choáng gió xuân, ngây ngất sông núi của hai người
Xi Vưu dắt tay A Hành chầm chậm xuyên qua rừng đào, đi về phía căn nhà sàn của họ.
Giậu trúc trước nhà vẫn ngay ngắn thẳng lối, bên trên nở đầy tường vi đỏ
thắm, sơn trà trắng muốt, khiên ngưu xanh biếc, đỗ quyên vàng rực… Hồ lô và mướp đã bắt đầu leo lên chiếc giàn bắc ngay giữa mảnh sân. Thùng gỗ
nằm lăn lóc trên bệ đá cạnh giếng, nước chảy ra thành vũng, ướt đẫm cả
khoảnh đất bên dưới, mấy chú chim nhỏ đang đứng châu đầu uống nước trong vũng, trông thấy người cũng chẳng hề sợ hãi, ngược lại còn ngẩng cổ gù
gù.
Vén bức màn bích loa lên, mọi thứ trong nhà đều được sắp xếp gọn gàng đâu vào đấy, sạch sẽ ngăn nắp. Tấm rèm lụa thiên thanh bên cửa sổ như sắc trời xanh biếc sau mưa, hoa đào đỏ thắm bên ngoài ánh lên
song sa, chẳng khác nào một bức tranh lụa tuyệt mỹ.
A Hành đăm đăm nhìn Xi Vưu, lòng bỗng nghe nghẹn ứ, bấy nhiêu năm nay, hắn đã trông nom ngôi nhà này chu đáo biết bao.
Xi Vưu mỉm cười ôm lấy A Hành, hôn lên trán nàng.
Trúc phượng vĩ rì rào, hoa đào bay lất phất, hai người ngồi tựa vai nhau,
hút Ca tửu chung một cần trúc, hệt như mấy trăm năm trước.
Hai
người đều không nói một lời, như sợ trò chuyện cũng làm lãng phí thời
gian vậy, họ chỉ đắm đuối nhìn sâu vào mắt nhau không nỡ rời, tựa hồ
trong nháy mắt nữa thôi, tất cả sẽ tan thành tro bụi.
A Hành đưa tay cởi áo Xi Vưu, hắn chỉ mỉm cười nhìn nàng, không hề cử động, thỉnh
thoảng mới nhấc tay lên phối hợp cùng nàng. Đợi toàn bộ quần áo trên
người đã được cởi bỏ hết, hắn mới đẩy nàng ngã ra, nghiêng người cầm cần rượu từ từ khều áo nàng từng chút, cần trúc mỗi lúc một chênh chao,
rượu vương ra cả người A Hành, Xi Vưu bèn cúi xuống, hôn lên những ngấn
rượu loang.
Rên rỉ, quấn quýt, triền miên. Trong gian nhà nho
nhỏ này, chẳng có Hiên Viên, chẳng có Thần Nông, chỉ có hai người yêu
nhau say đắm, cùng chung hưởng niềm khoái lạc cổ xưa nhất, giản đơn
nhất, nhưng cũng mãnh liệt nhất, dài lâu nhất trên thế gian này.
Nửa đêm, cả hai cùng tỉnh giấc.
Ánh trăng trong len qua song cửa, A Hành đắm đuối ngắm nhìn Xi Vưu, ngón
tay khẽ vuốt ve gương mặt hắn, như muốn ghi khắc tất cả vào tâm khảm.
Xi Vưu mỉm cười nhìn A Hành, thấy mắt nàng long lanh lệ, hắn bèn quàng tay siết chặt nàng vào lòng.
Ngón tay nàng vô thức vạch từng chữ lên ngực hắn, “Cây chết mây còn, còn quấn quýt, cây còn mây chết chẳng rời nhau.”
Thoạt đầu, Xi Vưu chưa nhận ra A Hành đang viết chữ, tới chừng nhận ra rồi,
hắn bèn tập trung cảm nhận, phát hiện nàng cứ viết đi viết lại một câu
đó.
Xi Vưu nắm lấy tay nàng đưa lên miệng hôn nhẹ, rồi hai đôi bàn tay lại đan cài vào nhau.
A Hành lim dim mắt nhìn Xi Vưu, hắn mỉm miệng cười, cả hai lại quấn riết
lấy nhau, như muốn hòa tan đối phương vào thân thể mình, hòa mình vào
thân thể đối phương, đòi hỏi và dâng hiến mãnh liệt đến gần như điên
dại.
Cuối cùng, hai người đều sức cùng lực kiệt, nhưng vẫn dán chặt lấy nhau không rời.
Xi Vưu khẽ hỏi: “Con gái đâu rồi? Có an toàn không? Nàng biết đấy, kẻ thù
của ta trong thiên hạ rất nhiều.” Đây là lần đầu tiên Xi Vưu tỏ ra quan
ngại về kẻ thù.
“Đang ở trên Ngọc sơn, có Vương Mẫu bảo vệ, còn có cả Liệt Dương trông nom.”
Bấy giờ Xi Vưu mới yên tâm, “Vậy ổn rồi.”
Ánh trăng hắt lên vách tường đỏ lòe, A Hành vùi mặt vào vai Xi Vưu, hỏi: “Gì thế?”
Xi Vưu nhấc tay lên, cây cung treo trên tường liền bay vèo tới tay hắn,
ánh đỏ tan đi, chỉ còn to bằng lòng bàn tay. Ra là Bàn Cổ cung, vậy mà
lại bị Xi Vưu tùy tiện treo trên vách một căn nhà sàn bỏ hoang.
A Hành khẽ bật cười: “Chàng còn chưa chịu quăng đi à?”
Xi Vưu cầm lấy cung, giơ lên săm soi dưới ánh trăng, “Tuy ta đã thử giương vô số lần mà chẳng thấy phản ứng, nhưng ta vẫn cảm giác nó không phải
phế vật, chỉ là chưa khám phá ra cách dùng đó thôi.”
Hồi còn
trên Ngọc sơn, A Hành từng nghe qua câu chuyện về Bàn Cổ cung, chính là
cây cung Bàn Cổ tạo ra để tìm kiếm người con gái mình yêu thương. Nhưng
chẳng hiểu sao Bàn Cổ không hề dùng đến nó, mà chỉ liệt nó vào hạng nhất trong số các thần binh rồi giao cho Ngọc sơn Vương Mẫu cất giữ.
A Hành cầm lấy cây cung từ tay Xi Vưu, chợt trông thấy trên cánh cung
dường như có khắc chữ, thầm nghĩ chữ quá nhỏ không sao nhìn rõ, thì cây
cung đã lớn vụt lên, “Trên cánh cung khắc chữ này.”
Xi Vưu chăm
chú nhìn, thấy trên cánh cung khắc những hoa văn gấp khúc, vừa giống
nòng nọc, lại giống hình trang trí, nhưng chẳng giống chữ chút nào.
“Đây là văn tự đã thất truyền, nghe đồn là chú ngữ để tế trời đất, may mà Tứ ca thích thưởng ngoạn cổ vật nên ta cũng lõm bõm được vài ba chữ.”
Xi Vưu tò mò hỏi: “Khắc chữ gì vậy?”
A Hành nhỏm dậy, nằm úp sấp, chống khuỷu tay lên ngực Xi Vưu, săm soi từng chữ thật lâu, đoạn ngập ngừng đọc: “Dĩ tâm hoán tâm.”
Bốn chữ này vô cùng đơn giản, hẳn không có nghĩa gì khác. Xi Vưu lặng thinh không nói, chỉ trầm ngâm suy nghĩ.
A Hành đặt cây cung sang một bên, khẽ nói: “Có lẽ Bàn Cổ cung là do Bàn
Cổ tạo ra thật, có điều lời đồn rằng bất kể thần ma, bất kể sinh tử, bất kể xa gần, đều có thể gặp lại người mình yêu thương nhất chắc là đồn
nhảm.”
Xi Vưu cười: “Mặc kệ Bàn Cổ cung là thật hay giả, bốn chữ này cũng rất đúng. Nếu thật sự hiểu được thế nào là “dĩ tâm hoán tâm”,
hẳn Bàn Cổ không để mất người ông ta yêu nhất.”
Trong tiếng nói cười, ánh nắng ban mai đã rọi vào bên cửa.
Dù trân trọng, mê mải, lưu luyến, níu kéo đến đâu chăng nữa, một đêm này cuối cùng cũng phải trôi qua.
A Hành ngồi dậy, mặc lại áo bước ra.
Xi Vưu chẳng nói nửa lời, chỉ lặng ngắm nàng.
Ra đến cửa, A Hành chợt ngoái lại: “Phía sau chàng là Thần Nông, là các
huynh đệ không tiếc máu xương chiến đấu cho chàng, là Viêm Đế và Du
Võng, còn sau lưng ta là Hiên Viên, là vô vàn cô nhi quả phụ, là ca ca
và cháu của ta. Ta sẽ dốc hết toàn lực, cũng xin chàng đừng hạ thủ lưu
tình, nếu không, ta sẽ rất căm hận bản thân mình.”
“Nàng biết ta không thể mà.” Xi Vưu nhỏm người dậy, chiếc áo đỏ đắp ngang eo, mái tóc điểm màu xõa trên chiếu, ánh mắt chất chứa đau thương nhưng nụ cười vẫn ngông cuồng như cũ.
Sáng sớm, đến lượt Phong Bá đi tuần, nhưng Vũ Sư lại đòi đi cùng, còn kéo theo cả bọn Si Mỵ Võng Lượng.
Lên đến đỉnh núi, cả bọn bắt gặp Hiên Viên Bạt và Xi Vưu kẻ trước người sau bay lại, tọa kỵ của Xi Vưu bay rất nhanh, nhưng hắn vẫn bám theo sau,
cách Hiên Viên Bạt một khoảng không xa không gần. Với tu vi của mình,
Hiên Viên Bạt chắc chắn cũng nhận ra Xi Vưu đang ở phía đằng sau, nhưng
chẳng hề phản ứng.
Sắp đến doanh trại, Xi Vưu chợt tăng tốc bay
vụt lên, ngang với Hiên Viên Bạt, đoạn vươn tay kéo nàng lại, hôn lên
môi nàng. Hiên Viên Bạt cũng chẳng phản kháng, ngược lại còn ôm chặt lấy Xi Vưu. Chỉ thoáng qua trong một khắc, rồi nàng lập tức buông hắn ra,
bay thẳng về phía doanh trại Hiên Viên, nhưng đã đủ khiến bọn Si Mỵ Võng Lượng tròn mắt kinh ngạc.
Võng lắp bắp hỏi: “Thế, thế này là sao? Bọn họ yêu nhau, vậy trận này làm sao đánh được!”
Si tính tình nóng nảy, lập tức nhảy vọt lên, chắn trước mặt Xi Vưu và Hiên Viên Bạt, giận đến đỏ mặt tía tai, chất vấn Xi Vưu: “Ta cứ ngỡ chỉ là
đồn nhảm, nào ngờ lại là thật, chẳng trách các người đánh mãi vẫn không
phân thắng bại! Huynh định giải thích thế nào với mọi người? Huynh làm
vậy có phải với những hán tử Thần Nông thề chết phò tá huynh không, có
phải với Du Võng thật lòng đối đãi huynh không?”
Xi Vưu vốn ưa
mềm không ưa cứng, lạnh lùng cười vặn lại: “Ta cần gì phải giải thích
với các người? Ta có lỗi với họ hay không, đến lượt ngươi bình phẩm đấy
à?”
Đúng lúc Ứng Long dậy sớm đi tuần gần đó, nghe động bèn lần tới, vừa khéo nghe hết những gì Si nói.
Si trỏ Hiên Viên Bạt, quát hỏi Xi Vưu: “Còn chẳng phải huynh tư thông với ả?”
Ứng Long nổi giận quát: “Nếu ngươi còn dám nói xằng nữa, chúng ta sẽ không khách khí đâu!”
“Ta không nói xằng, chúng ta đều tận mắt chứng kiến cả, vừa rồi bọn họ còn ôm hôn nhau, phải không Vũ Sư?”
Ứng Long đua mắt nhìn Tử Thần, sực nghĩ tới chuyện vương cơ tự động từ hôn
Thiếu Hạo, lòng đầy nghi hoặc, nhưng chẳng dám lên tiếng hỏi. Ly Oán bên cạnh nôn nóng: “Tâu vương cơ, bọn chúng nói có đúng không? Vương cơ và
Xi Vưu… thật sự… thật sự có tư tình sao?”
Tướng sĩ Thần Nông tộc đi theo Phong Bá cũng xôn xao chất vấn Xi Vưu, nhưng dù bọn họ hỏi gì
đi chăng nữa, hắn vẫn một mực làm thinh không đáp, chỉ lặng lẽ nhìn A
Hành, ánh mắt vô cùng phức tạp, có lo lắng, có mong đợi, có giễu cợt,
còn có cả xót xa.
Xi Vưu không phải quân tử, nhưng xưa nay hành
sự luôn quang minh chính đại, ngay cả lúc tàn sát toàn thành, cũng thẳng tay kiên quyết, chưa từng che giấu bản tính tàn nhẫn. Ta tàn sát đó,
thì sao nào? Ta tàn nhẫn với kẻ thù đó, làm sao? Chỉ riêng tình cảm với A Hành, xưa nay hắn vẫn luôn giấu giếm như ăn vụng vậy.
Dưới sự
truy vấn của mọi người, A Hành đã mấy lần toan phủ nhận, nhưng ánh mắt
Xi Vưu cứ như xoáy vào lòng, nàng đã khiến hắn chịu ủy khuất mấy trăm
năm nay, lẽ nào đến thời khắc cuối cùng này cũng không thể quang minh
chính đại thừa nhận hắn ư? Xi Vưu vốn không quan tâm tới người đời,
nhưng hắn rất để tâm tới việc mình có được đường đường chính chính hay
không.
Trong chớp mắt, A Hành liền hạ quyết tâm, thản nhiên
tuyên bố: “Ta và Xi Vưu đúng là có tư tình.” Giọng nàng không lớn, nhưng tất cả mọi người đứng đó đều kinh ngạc sững sờ, tưởng như mình nghe
lầm, ngay cả Xi Vưu cũng ngỡ đó là ảo giác do chờ đợi suốt mấy trăm năm
mà ra.
“Ta đã yêu chàng suốt mấy trăm năm nay rồi!” A Hành cao giọng lặp lại lần nữa, như muốn công bố trước toàn thiên hạ.
Tướng sĩ hai bên đều hồn phi phách tán, nghe như sét đánh ngang tai. Thiếu
Hạo lo lắng nhìn A Hành, y vốn chỉ định phá hủy uy tín của Xi Vưu trước
mặt đám thuộc hạ thân tín, nên mới dàn cảnh để bọn Phong Bá phát hiện ra tư tình giữa Xi Vưu và A Hành, nào ngờ Ứng Long lại lù lù xuất hiện,
thành ra A Hành cũng bị kéo xuống bùn. Hiện giờ chỉ cần xử lý không ổn
thỏa thì tướng sĩ Hiên Viên chẳng những không phục A Hành mà có lẽ còn
khinh miệt chửi rủa nàng nữa.
Xi Vưu phá lên cười sảng khoái, không hề che giấu niềm hân hoan đắc ý toát lên từ tận đáy lòng.
Tất cả mọi người đều ngây ra nhìn hắn cười ha hả, một hồi lâu sau, Xi Vưu
mới ngưng cười, nhưng vẫn âu yếm nhìn A Hành, vẻ dịu dàng lộ hẳn ra mặt. Võng lắp bắp lên tiếng: “Đại tướng quân, ngài, ngài không phải lòng ả
yêu nữ Hiên Viên này đấy chứ?”
Xi Vưu đang lúc vui vẻ, bèn nháy mắt cười đáp: “Không phải lòng nàng, lẽ nào lại phải lòng ngươi?”
Võng và Lượng sắp khóc rống lên: “Nhưng ả đó là xấu xa, lẳng lơ buông thả,
rõ ràng đã gả cho Thiếu Hạo, còn quyến rũ Đại tướng quân; hơn nữa lại
tàn độc hiếu sát, nghe đồn ả đã chính tay đã đâm chết ca ca mình, mấy
tháng nay, tướng sĩ của ta chết trong tay ả cũng đến bảy tám ngàn người
rồi.”
“Thế thì sao? Bất kể thế nào, miễn là nàng, ta đều yêu.” Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành không rời mắt, cười đáp lại.
Thiếu Hạo trà trộn giữa đám người, chăm chú quan sát Xi Vưu, ánh mắt đầy phức tạp.
A Hành vừa thẹn vừa giận, trừng mắt lườm Xi Vưu rồi quay sang nói với Ứng Long và Ly Oán: “Ta biết các người muốn nghe ta giải thích và xin lỗi,
cho các người một lý do để lượng thứ, nhưng ta tự thấy mình không sai,
ta không cần các người lượng thứ. Người duy nhất ta cần xin lượng thứ
chính là Xi Vưu, suốt mấy trăm năm nay, ta vì mẹ, vì ca ca, thậm chí vì
con gái mình mà hy sinh chàng hết lần này tới lần khác. Ba năm trước,
khi mẫu hậu lâm chung đã đồng ý cho ta lấy Xi Vưu, ta cũng đã hứa nhất
định sẽ ở bên chàng, tiếc rằng ta lại một lần nữa phản bội lời hứa. Vì
tộc nhân của mình, ta chẳng những không đi theo chàng, mà còn dẫn các
người tới đây giết chàng. Từ đầu chí cuối, ta vẫn giữ tròn trách nhiệm
của Hiên Viên vương cơ, chưa từng làm gì có lỗi với Hiên Viên, nhưng lại luôn có lỗi với chàng. Nếu các người còn tin theo ta thì ta sẽ cầm
quân, nhược bằng không, ta sẽ giao binh quyền cho Ứng Long ngay bây
giờ.”
Ứng Long lập tức quỳ xuống chân A Hành, “Mạt tướng thề chết phò tá vương cơ.”
Quân nhân trên sa trường luôn sống trước lằn ranh sinh tử, khác hẳn các đại
thần trong triều, khái niệm đúng sai phải trái của họ cũng vô cùng đơn
giản rõ ràng, không sai tức là đúng. Năm xưa Ứng Long bất chấp bị hủy
diệt long thể cũng quyết cứu cho được thuộc hạ, chuyện này đã được
truyền tụng từ lâu, uy tín của y trong quân đội rất cao, lại thêm tướng
sĩ theo y đi tuần đều là thân tín, trông thấy y quỳ xuống, như nghe thấy quân lệnh, liền lũ lượt quỳ xuống theo.
Bọn Ly Oán cũng đồng
thời quỳ cả xuống, “Nếu không có vương cơ cầm quân ra trận, e rằng Hiên
Viên thành đã bị phá từ lâu rồi.” từ lúc cầm quân ra trận, nhất cử nhất
động của Hiên Viên Bạt đều bị vô số con mắt trông vào. Huống hồ Thần
Nông và Hiên Viên xưa nay vẫn kết mối thông gia với nhau, từ khi khai
chiến đến nay, họ đã nghe qua rất nhiều chuyện thù nhà nợ nước khó vẹn
toàn, tư tình và đại nghĩa chỉ được chọn một như vậy rồi. Hơn nữa, dân
chúng hiên Viên vốn phóng khoáng, khá thoải mái trong chuyên nam nữ, nếu Hiên Viên Bạt thề thốt phủ nhận, có thể ngoài mặt họ tỏ vẻ tin tưởng,
nhưng trong lòng sẽ nghi hoặc không thôi, trái lại Hiên Viên Bạt thẳng
thắn thừa nhận, còn khiến họ lấy làm khâm phục.
Thiếu Hạo thầm
thở dài nhẹ nhõm, một chuyện hung hiểm đến vậy, nào ngờ chính nhờ sự
chân thành thẳng thắn của A Hành mà được hóa giải nhẹ như không. Lòng
người có lúc phức tạp vô cùng, nhưng cũng có lúc lại rất đơn giản, chỉ
đòi hỏi sự thật mà thôi.
A Hành đưa mắt nhìn Si Mỵ Võng Lượng,
“Các người đi theo Xi Vưu mấy trăm năm nay, tính tình chàng thế nào, các người còn phải nghi ngờ ư? Nếu chàng bán đứng các người, hẳn Hiên Viên
đã đánh sập Thần Nông sơn lâu rồi, bấy lâu chàng gánh đủ tiếng ác trong
thiên hạ, chẳng lẽ vì bản thân mình hay sao? Thật uổng công chàng đã coi các người như huynh đệ!” Giọng điệu nàng đầy vẻ kiêu ngạo, đồng thời
cũng nặng trĩu bi ai, khiến tướng sĩ Hiên Viên và Thần Nông bất giác đều cảm thấy thê lương bất lực.
Si Mỵ Võng Lượng thẹn đỏ mặt, lần lượt cúi gằm xuống.
A Hành đăm đăm nhìn Xi Vưu, đoạn dẫn quân đi khỏi.
Xi Vưu mỉm cười trông theo A Hành, lần đầu tiên, trước mặt mọi người, ánh
mắt hắn nhìn nàng không bợn một tia u ám, chỉ chan chứa tình ý nồng nàn
đắm đuối, quang minh lỗi lạc như vầng dương giữa trời kia.