Xi Vưu không sao tin nổi, thiếu nữ áo xanh trước mặt giống hệt A Hành
trong ký úc của hắn, cũng chính là người con gái hắn tương tư suốt hai
trăm năm, nguyện từ bỏ mọi thứ để đổi lấy nàng, vậy mà hai trăm năm sau
gặp lại đã thành người dưng xa lạ, bao ân oán dây dưa thuở trước dường
như chưa từng xảy ra.
Thà rằng nàng căm hận hắn, còn hơn là lãng quên hắn!
[1] Xem chú thích đầu chương 1.
Thanh Dương vừa đem hạt châu về Triêu Vân phong, Luy Tổ lập tức phái người đi mời Hoàng Đế tới.
Hoàng Đế căn vặn thật kỹ lai lịch của hạt châu, lại thấy hạt châu hấp thụ
tinh huyết linh lực, bèn thuyết phục Luy Tổ: “Ta biết sau khi Hành nhi
qua đời, bà đau lòng khôn xiết, ta cũng mong Hành nhi có thể trở về,
nhưng thứ này không phải Hành nhi, chỉ là ma vật do Ngu uyên kết thành,
nếu không hủy đi e hậu họa vô cùng.”
Luy Tổ xuất thân từ “Tứ thế gia” danh môn thượng cổ, hiển nhiên biết rõ ma vật đáng sợ nhường nào.
Bà mân mê hạt châu, hồi lâu mới đáp: “Dù là ma vật cũng do Hành nhi biến thành, thiếp không tin nó lại hại cả cha mẹ đại ca.”
Thanh Dương và Xương Ý nhất loạt quỳ xuống dập đầu cầu khẩn Hoàng Đế.
Hoàng Đế bất đắc dĩ đành đồng ý thử một lần, “Nếu quả thật đây là ma vật hại
người, phải lập tức trừ khử trước khi nó gây họa cho nhân thế đó.” Nếu
để người trong thiên hạ biết được Hoàng Đế dung dưỡng ma vật, danh vọng
của ông sẽ bị hủy hoại, cực kỳ bất lợi cho vương đồ bá nghiệp.
Hoàng Đế bí mật triệu Tri Mạt thạo bày trận pháp lên Triêu Vân phong bày bố
Thần trận, lại cắt đặt hai tâm phúc của mình là Ly Chu và Tượng Võng
trấn trận.
Hoàng Đế, Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý đồng thời rỏ linh lực cùng tinh huyết của mình vào hạt châu.
Hệt như Ngu uyên nuốt chửng mọi thứ, hạt châu này cũng tham lam hút hết
linh lực và tinh huyết rỏ xuống, họ càng đổ nhiều tinh huyết và tinh lực thì hạt châu càng hút mạnh. Hoàng Đế thấy tình thế không ổn, bèn quả
quyết cắt đứt mối dây liên kết giữa mình và hạt châu, nhưng Luy Tổ,
Thanh Dương, Xương Ý rõ ràng cảm thấy như bị Ngu uyên nuốt chửng, vẫn
khăng khăng không từ bỏ.
Sắc mặt Luy Tổ nhợt hẳn đi, hệt như gốc đại thụ bị rút kiệt nước. Hoàng Đế phải cưỡng chế kéo bà ra, đồng thời
cao giọng hạ lệnh ngừng trận pháp.
Xương Ý bủn rủn ngã lăn ra
đất, hai mắt nhắm nghiền, mặt vàng như nghệ, cả người run lên cầm cập,
rõ ràng đã bị trọng thương. Xương Phó trấn giữ bên ngoài trận pháp thấy
vậy vội nhào tới giúp y bảo hộ linh thể.
Thanh Dương tái mét
mặt, đờ người ngã phịch xuống đất, mất hết tri giác. Tuy y thần lực cao
cường nhưng chính vì ỷ vào thần lực, lại áy náy trước cái chết của A
Hành nên khi nãy đã bất chấp nguy hiểm, dốc hết linh lực và tinh huyết
hơn cả, một lòng muốn cứu sống em gái, bởi vậy nên bị thương nặng hơn
hết, nếu không phải Hoàng Đế kịp thời ngăn cản, e rằng tính mạng cũng
khó giữ.
Thấy hạt ma châu này suýt hại chết hai đứa con mình,
Hoàng Đế nổi giận đùng đùng, hạ lệnh cho Ly Chu: “Mang Tứ Tượng kính lại đây, bày Diệt Ma trận, tiêu hủy ma vật này đi.”
Luy Tổ yếu ớt níu tay áo Hoàng Đế vật nài: “Đừng mà!”
Nhìn dáng vẻ già nua tiều tụy của Luy Tổ, Hoàng Đế cũng chạnh lòng xót xa,
bèn kiếm lời an ủi: “Hành nhi là đứa con gái duy nhất của ta, bà tưởng
ta không thương nó ư? Có điều thứ này không phải Hành nhi, Thanh Dương
vẫn luôn hổ thẹn trong lòng vì cái chết của Hành nhi, Xương Ý lại là đứa chấp mê bất ngộ, một ngày chưa trừ khử hạt châu này, hai đứa nó nhất
định sẽ nghĩ cách đánh thức nó dậy. Hôm nay may mà có ta và Tri Mạt ở
đây, giữ được mạng cho chúng, nhưng lần sau thì sao? Ta thật không muốn
mất thêm hai đứa con trai nữa đâu. Đã mất một đứa con gái rồi, lẽ nào bà đành lòng vì nó mà đánh mất nốt hai đứa con trai sao?”
Nhìn hai đứa con trai trọng thương dưới đất, Luy Tổ hiểu Hoàng Đế nói phải,
không thể giữ hạt ma châu này lại được. Nhưng từ tận đáy lòng, bà luôn
cảm thấy đó là hóa thân của A Hành, lòng đau như dao cắt, nước mắt lã
chã. Hoàng Đế biết Luy Tổ rất có ảnh hưởng đối với bọn Tri Mạt, sợ lát
nữa Luy Tổ lại lên tiếng ngăn cản, bèn âm thầm vận linh lực khiến bà hôn mê, ngủ thiếp đi rồi sai cung nữ đưa Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý về
Triêu Vân điện.
Ly Chu bẩm: “Tứ Tượng kính đem đến đây rồi, bày
trận luôn bây giờ ư?” Diệt Ma trận là sát trận do Bàn Cổ lập ra, bất kể
thần hay ma, một khi vào trận ắt cầm chắc cái chết, xưa nay chưa từng
thấy kẻ nào sống sót bước ra khỏi Diệt Ma trận. Muốn bày trận cần tới
thần khí Tứ Tượng kính, từ sau khi Bàn Cổ qua đời, Tứ Tượng kính do tổ
tiên Tây Lăng Thị cất giữ, sau này Luy Tổ gả về Hiên Viên tộc, Tứ Tượng
kính cũng trở thành của hồi môn của bà.
Đặt tay lên hạt châu, Hoàng Đế cũng cảm nhận được mối ràng buộc máu thịt giữa hạt châu và mình nên chần chừ chưa quyết.
Ly Chu kính cẩn đứng một bên đợi lệnh.
Nói cho cùng Hoàng Đế cũng là bá chủ một phương, dù lòng không nỡ nhưng ông tuyệt đối không để tình cảm chi phối, trù trừ hồi lâu bèn gật đầu ra
hiệu cho Tri Mạt. Tri Mạt nhận lệnh, bắt đầu bày Diệt Ma trận.
Trận pháp vừa rậm rịch bày bố, sắc trời tối sầm lại, mưa to gió lớn ào ào
trút xuống. Trời cao như cũng cảm nhận được mọi chuyện, bèn giáng sấm
chớp xuống ì ùng.
Khí thiêng trong trời đất được Tứ Tượng kính
triệu hồi vần vũ tụ lại. Thanh Dương và Xương Ý cũng cảm nhận được sự
thay đổi của đất trời, đồng loạt tỉnh dậy, trông ra ngoài thấy sắc trời
đen kịt, mưa như trút nước, lập tức hiểu ra mọi chuyện, liền gắng gượng
vùng dậy, nhưng Hoàng Đế sớm lường trước mọi chuyện, đã sai Thần tướng
canh giữ, không cho hai người rời khỏi phòng nửa bước.
Xương Ý
bất chấp thương thế, toan xông ra can ngăn, liền bị hai viên Thần tướng
cản trở, ấn xuống giường, lấy xích Long Cốt xích lại. Mặc cho Xương Ý
vừa giận vừa cuống chửi toáng lên, hai viên Thần tướng ngoài miệng thì
“Điện hạ thứ tội” nhưng ra tay rất mau mắn, hiển nhiên Hoàng Đế đã ban
nghiêm lệnh.
Thanh Dương cử động khó khăn lại hiểu con người
Hoàng Đế hơn ai hết, tự biết chẳng có cơ hội xông ra, y chỉ ngồi lặng,
đăm đăm trông về đỉnh Hiên Viên – sau màn mây dông vần vũ đang cuồn cuộn tụ về trên đỉnh Hiên Viên kia, thấp thoáng lóe lên ánh chớp, chờ tới
khi bày xong trận pháp, sấm nổ vang trời, trận pháp sẽ tự động dẫn lửa
trời giáng xuống, ngũ lôi oanh kích công phá hạt châu, triệt để hủy diệt nó.
Từ sau khi A Hành qua đời, Xương Ý không buồn mở miệng trò
chuyện với Đại ca, lúc này thấy tình thế cấp bách, chẳng biết làm sao,
mới đành lên tiếng cầu khẩn: “Đại ca, huynh cứ thế giương mắt nhìn tiểu
muội tan xương nát thịt ư? Đệ không cần biết nó có phải ma hay không, đệ chỉ biết nó là muội muội của mình thôi.”
Y vừa dứt lời đã thấy
Xương Phó khoác áo choàng, bưng hai hộp đồ ăn bước vào. Nàng đặt đồ ăn
xuống đất, ghé tai Xương Ý nói nhỏ: “Thiếp đã huy động tinh binh Nhược
Thủy, nhất định phải tìm cách trộm hạt châu đem ra.”
Xương Ý
rung động cả tâm thân, siết chặt lấy tay Xương Phó, lòng rưng rưng bao
điều muốn nói mà không sao thốt nên lời. Chống lại Hoàng Đế là tội chết, vậy mà Xương Phó vẫn bất chấp hậu quả, chẳng nề đem số mệnh cả tộc ra
đối chọi với Hoàng Đế, nhưng y có thể ích kỷ, thí bỏ cả Xương Ý và Nhược Thủy tộc sao?
Hiểu lòng y đang nghĩ gì, Xương Phó dịu giọng:
“Chàng quên lời thề giữa hai ta trong đêm tân hôn rồi ư? Phu thê một
lòng, bên nhau suốt kiếp, sống chung chăn gối, chết chung huyệt mộ! Muội muội của chàng cũng là muội muội của thiếp, muội muội của thiếp chính
là người của Nhược Thủy tộc, bất kể nguy hiểm đến đâu, Nhược Thủy tộc
bọn thiếp quyết không bỏ rơi người của mình!”
Thấy Xương Ý gật
gật đầu, Xương Phó kiên quyết đứng phắt dậy, toan bước ra ngoài, xông
vào màn mưa gió, chợt Thanh Dương lạnh lùng lên tiếng: “Nếu đám bán yêu
Nhược Thủy tộc cũng có thể phá giải Diệt Ma trận mà Hiên Viên tộc bày
bố, Hiên Viên chẳng được cả đại hoang tôn xưng là một trong Tam đại Thần tộc. Giờ đây muội đã thành trưởng tộc, hành sự phải động não một chút,
đừng tưởng cứ đâm đầu tìm chết là anh dũng đâu!”
Xương Ý rối cả
ruột, liền trừng mắt nhìn Thanh Dương, vùng vẫy định nhào tới đánh cho y một trận, chỉ có Xương Phó tinh tế, nhận ra ẩn ý trong lời Thanh Dương, “Đại ca thấy làm vậy không ổn, vậy huynh có cách nào hay hơn không?”
Thanh Dương hờ hững đáp: “Giờ đây người nên ra tay cứu A Hành nhất không phải muội, mà muội cũng chẳng có năng lực đó.”
Xương Ý giận dữ buông lời chế nhạo: “Vậy ai mới nên? Chắc là chàng rể huynh
chọn cho A Hành, Cao Tân Thiếu Hạo hả? Tuy hắn có năng lực thật đấy,
nhưng chúng ta lấy đâu ra Hà Đồ Lạc Thư mà trao đổi nữa!”
Thanh Dương chẳng chấp Xương Ý, chỉ ngoảnh sang bảo Xương Phó: “Muội cưỡi tọa kỵ của ta đi tìm Xi Vưu, báo tin cho hắn hay.”
Xương Phó sực hiểu ra, hàng năm nàng đều cùng Xương Ý tới Ngu uyên bái tế A
Hành, suốt hai trăm năm, năm nào cũng thấy ngoài Ngu uyên có thêm mấy
gốc đào. Mấy năm đầu Xương Ý thường nổi giận nhổ sạch, nhưng Xi Vưu lại
lặng lẽ trồng xuống, Xương Ý nhổ bao nhiêu, hắn trồng lại bấy nhiêu, về
sau Xương Ý chẳng buồn nhổ nữa, chỉ cười nhạt nói: “Để xem hắn trồng
được bao lâu”, thật chẳng ngờ, hắn đã trồng suốt hai trăm năm.
Thanh Dương lại dặn dò: “Muội bảo Chu Du lập tức báo cho Thiếu Hạo hay.”
Thấy Xương Ý định phản đối, Thanh Dương trừng mắt nhìn y: “Dù sao A Hành
cũng là vợ cưới hỏi đàng hoàng của Thiếu Hạo, cứu hay không cứu là do
hắn, nhưng phải cho hắn biết tình hình hiện tại, huống hồ thêm một người là thêm một cơ hội kia mà.”
Xương Ý trầm ngâm giây lát rồi gật đầu với Xương Phó, nàng liền khép vạt áo, bước ra ngoài trời mưa gió.
Vì bày bố Diệt Ma trận, trăm dặm quanh Hiên Viên sơn vần vũ mây đen, mưa
rào rào như trút nước, ánh chớp lấp loáng sau màn mây dông tựa vô số rắn vàng uốn éo, cả bầu trời như một mảnh vải đen kịt thêu đầy những hoa
văn vàng rực rối mắt.
Mưa gầm gió rít thổi bạt đi tất cả âm thanh, vậy mà trong tiếng mưa gió sầm sập, vẫn nghe văng vẳng giọng ca thê thiết.
“A ối à ối a
Mình đành nhắm mắt mãi sao
Chẳng buồn hé mở chút nào nhìn ta
Nếu ta làm nát lòng hoa
Xin mình cứ móc mắt ta cho rồi
Miễn mình mở mắt ra thôi…
A ối à ối a
Mình đành quên lãng thế sao
Quên bao ngày tháng xiết bao hẹn thề
Vì ta, mình luồng tái tê
Móc tim, ta cũng sá gì mình ơi
Miễn mình lại tái sinh thôi…”
Xi Vưu giẫm trên lưng đại bàng, áo đỏ phần phật, xé gió băng mưa mà đến.
Ly Chu bước ra quát: “Mau dừng bước, phía trước là cấm địa của Hiên Viên tộc.”
Xi Vưu chẳng buồn nhìn lão, cao giọng nói với Hoàng Đế trên đỉnh núi: “Ta
là Xi Vưu, Đốc Quốc Đại tướng quân của Thần Nông, mấy hôm trước lỡ đánh
mất một hạt tâm châu, ngày đêm trăn trở không yên, nghe nói Hoàng Đế
nhặt được bèn vội vã tới xin lại, mong ngài ban trả cho ta, Xi Vưu vô
cùng cảm kích.”
Ly Chu hỏi: “Chẳng hay Đại tướng quân làm sao chứng minh được hạt châu đó là của ngài?”
Xi Vưu bèn tả lại rành rọt từ kích cỡ đến màu sắc hạt châu khiến Ly Chu
cứng họng không vặn vẹo nổi. Thấy vậy Tượng Võng khẽ bẩm Hoàng Đế: “ Hay là để thuộc hạ dẫn binh đuổi hắn đi?”
Hoàng Đế lắc đầu: “Xi Vưu tính tình cuồng ngạo, hắn vừa nhận mình là Đốc Quốc Đại tướng quân của
Thần Nông nhằm chứng tỏ rằng hắn có thể huy động quân đội Thần Nông,
cảnh cáo chúng ta nếu không muốn hắn động binh thì đừng dại động binh
trước. Lỡ chúng ta không chứng minh được hạt châu đó không phải của hắn
thì hắn sẽ thắng thế, mà quả thực hiện giờ chúng ta chưa có cách nào
chứng minh được cả.” Hoàng Đế không muốn vạch áo cho người xem lưng nên
chẳng hề cho bọn Ly Chu biết lai lịch hạt châu, càng không đời nào tiết
lộ với người đời rằng hạt ma châu đó là hóa thân của con gái mình. Nếu
người trong thiên hạ biết con gái ông đã thành ma, danh tiếng của ông ta sẽ phải chịu đả kích ghê gớm.
Tượng Võng giận dữ thét: “Đánh
thì đánh! Ai sợ hắn chứ?” Những tướng sĩ bỏ mạng trong trận Đại Thì sơn
đa phần là thuộc hạ của Tượng Võng, nên lão thù Xi Vưu tới tận xương
tủy.
Hoàng Đế trừng mắt với Tượng Võng: “Sao ngươi mãi không sửa được tính nóng nảy thế? Ta đã bảo ngươi bao nhiêu lần, phải cẩn thận
kẻo rút dây động rừng kia mà? Không nhịn việc nhỏ sẽ hỏng hết việc lớn!
Hiện giờ quốc lực Hiên Viên có thể toàn diện khai chiến được với Thần
Nông sao?” Thấy Tượng Võng cúi đầu làm thinh, Hoàng Đế nghĩ ngợi rồi
lạnh lùng phán: “Cứ để hắn biết khó khắc lui! Xưa nay chưa một ai vượt
qua được Diệt Ma trận, nếu hắn cứ muốn đâm đầu thì càng hợp ý ta, dù hắn bỏ mạng trong trận cũng không liên quan gì tới chúng ta cả!”
Ly Chu hiểu Hoàng Đế muốn dựa vào Diệt Ma trận để lấy mạng Xi Vưu, bèn cao giọng bảo hắn: “Hạt châu này hút máu người, đoạt mạng người, hẳn không
phải tâm châu của Đại tướng quân. Hiện giờ Diệt Ma trận đã bày xong, mời Tướng quân đích thân vào thử xem, một khi xác định không phải tâm châu, xin ngài tức tốc lui ra, để khỏi bị ma vật liên lụy, rước họa vào
mình.”
Lão vừa dứt lời, mọi người đều lục đục lui xuống.
Xi Vưu rảo bước tiến vào Diệt Ma trận. Viêm Đế từng giảng giải cho hắn về
uy lực của trận thế này, Diệt Ma trận do thượng cổ thần khí Tứ Tượng
kính bày ra, bao gồm bốn trận pháp, ngụ ý chỉ tứ tượng trong đời người – tử, sinh, ảo, diệt. Trận pháp vô cùng quái dị, xưa nay chưa kẻ nào vượt qua nổi, vô số cao thủ xông vào, không hóa điên thì bỏ mạng, nghe nói
Bàn Cổ từng tuyên bố kẻ nào vượt qua được Diệt Ma trận sẽ ban cho Tứ
Tượng kính, mãi về sau một tên ngốc nhà Tây Lăng không có chút linh lực
nào lạc vào trận pháp, lại lớ ngớ thoát ra được, Bàn Cổ bèn ban Từ Tượng kính cho tổ tiên Tây Lăng Thị.
Xi Vưu đã bước vào tượng đầu tiên của Diệt Ma trận – Tử kính.
Hai mươi tư khối đá tảng được chạm trổ thành hai mươi tư thần tướng thân
mang kim giáp, vung kích vàng, trợn mắt hung hãn nhìn Xi Vưu.
Kim Giáp thần dũng mãnh vô song, lại không có máu thịt, không biết mệt mỏi
đau đớn, càng chẳng biết sợ sệt, tựa hồ chẳng hề có khuyết điểm, nhưng
thực tế, ưu thế của chúng chính là khuyết điểm, không có cảm giác, hành
động sẽ rất cứng nhắc, thiếu linh hoạt. Đối phó với chúng, hạng cao thủ
tuyệt đỉnh linh lực cao thâm như Xi Vưu chỉ cần dùng hư chiêu đến dử,
dần dà sẽ tìm ra sơ hở trong chiêu thức rồi dựa vào đó mà phản công.
Nhưng hắn đang lo lắng cho A Hành, lòng như lửa đốt, nào dám lãng phí
thời gian, vừa ra tay đã dốc hết toàn lực, lấy cứng chọi cứng, Kim Giáp
thần cương mãnh thì Xi Vưu còn cương mãnh hơn, một mình hắn đấu ngang
ngửa với hai mươi tư pho tượng đá.
Có điều, dần dà Xi Vưu phát
hiện ra, dùng linh lực công kích chẳng thương tổn được Kim Giáp thần,
chúng không ngại nước lửa, cũng chẳng sợ gì đao kiếm.
Tẳng mây
đen kịt trên không càng lúc càng trĩu xuống, Xi Vưu nôn nóng muốn dứt
điểm, thầm hạ quyết tâm dù chết cũng phải vượt qua trận này.
Thấy một tên Kim Giáp thần tấn công mình, hắn không tránh không né, chỉ gầm
lên 1 tiếng, hai tay đưa ra đối chiêu với Kim Giáp thần. Tuy Xi Vưu
cương mãnh nhưng dù sao cũng là máu thịt đối chọi với đá tảng, hắn không khỏi thấy huyết khí cuộn lên trong lồng ngực, song vẫn thừa cơ túm lấy
tay Kim Giáp thần, thét lớn, bẻ gãy rời vứt xuống đất, đoạn phun ra một
bụng máu.
“Tới đi!”
Xi Vưu gầm lên, dùng phương pháp hoang dã nhất mà cũng hữu hiệu nhất, đối phó với đám Kim Giáp thần.
Chỉ một tuần hương, hai mươi tư Kim Giáp thần đều biến thành những pho
tượng đá cụt tay, không ngăn cản nổi Xi Vưu nữa, đổi lại, hắn cũng phải
trả giá đắt, khắp người đầy thương tích, đồng thời gãy mất hai rẻ xương
sườn.
Đây mới là tượng đầu tiên trong tứ tượng!
Xi Vưu ngước mắt nhìn mây đen vần vũ trên đầu, lao vút đi.
Tượng thứ hai là Sinh kính, tên sao trận vậy, không có tấn công, cũng khỏi
cần trả giá hay đổ máu, thoạt nhìn vô cùng yên bình. Trận pháp hội tụ
băng tuyết do hàn khí kết thành, chẳng có xảo quyệt gì phá được, cách
duy nhất chỉ là lê bước băng qua gió tuyết mà thôi.
Xi Vưu bước
vào giữa một trời gió tuyết, càng đi sắc trời càng tối sầm lại, tuyết đổ càng nhiều, lạnh đến đông cứng cả xương cốt, dẫu thần tiên linh lực cao thâm bậc nhất cũng không sao chịu nổi cái giá buốt do hàn khí chí âm
của trời đất tạo thành. Mới đầu Xi Vưu thấy lạnh buốt cả xương, phải
liên tục vận linh lực phản kháng, nhưng cứ đi đi mãi, hắn dần dà lạnh
đến mất đi cả tri giác, không còn cảm thấy lạnh, cũng chẳng cảm nhận
được gió tuyết nữa, thần trí chỉ còn là một mảnh mơ hồ, chừng như đã
quên cả mình là ai.
Trong cơn mơ màng, hắn tựa hồ quay trở lại
thuở ấu thơ, khi còn là một con dã thú tung hoành giữa rừng già, không
ngừng giết chóc, giành giật địa bàn, cướp đoạt thức ăn.
Đồng
loại của hắn hoặc chết hoặc tới mùa xuân lại đi xây tổ ấm, hễ hắn mon
men lại gần, chúng đều nhe nanh múa vuốt gầm gừ đe dọa. Hắn không hiểu
tại sao lại thế, chỉ thấy mình vô cùng cô đơn, nỗi cô đơn còn buốt giá
hơn băng tuyết.
Năm này qua năm khác, toàn là giết chóc, đổ máu, chết thảm, năm này qua năm khác, đám dã thú trong rừng dường như cũng
nhận ra hắn khác bọn chúng, không chịu gần gũi với hắn nữa, năm lại năm, chỉ còn mình hắn tung hoành. Nỗi cô đơn mỗi lúc một thêm nặng trĩu, nỗi cô đơn trơ trọi bởi không tìm được đồng loại trên thế gian, niềm đau
khổ dồn nén lại, không nơi giãi bày thổ lộ, nhưng hắn cũng chẳng hiểu
nổi, mình đau khổ vì lẽ gì?
Có lần hắn tò mò mon men tới một
thôn trang của con người, thấy đám trẻ tung tẩy nô đùa, hắn thích thú vô cùng, dường như những tiếng cười giòn tan ấy có thể xua tan hết bao đau khổ dồn nén trong lòng vậy. Hắn muốn lại gần bọn họ, nhưng bọn họ ném
đá vào hắn, lấy lửa đốt hắn, vung đao kiếm đâm hắn.
Đầu hắn bị
đá ném trúng, lông lá trên người bị lửa thiêu, thân thể bị thương vì đao kiếm, hắn đành vắt chân lên cổ mà chạy, chạy đến lúc mệt nhoài.
Trời đất tối đen, như đang dịu dàng dỗ dành hắn, nghỉ ngơi đi, nghỉ ngơi
thôi! Chỉ cần ngủ thiếp đi, sẽ chẳng phải chịu đau đớn nữa!
Xi
Vưu toan ngả lưng nằm xuống đánh giấc, nhưng tận sâu trong đáy lòng cứ
nhức nhối một chấp niệm, dường như trái tim hắn đã khuyết đi một mảnh,
dù muốn ngủ cũng phải tìm lại được mảnh tim đã mất, dựa vào nó mà ngủ
thì sẽ có thể sở hữu tiếng cười xua tan hết thảy tối tăm và đau khổ, sẽ
có được sự dịu dàng, sẽ không còn cô đơn nữa.
Rốt cuộc là thiếu mất cái gì nhỉ? Và mảnh khuyết đó giờ đang ở đâu?
Xi Vưu ngửa mặt đón gió, tiếp tục lê bước, lảo đảo băng qua bão tuyết.
Đột nhiên tuyết tạnh mây tan, trời trong nắng ấm, ánh mặt trời rọi lên mình Xi Vưu, trông hắn hệt như một cây cột băng tuyết, chẳng còn ra hình
người, từ đầu đến chân đều đóng băng, mặt mũi bị băng tuyết phủ kín.
Xi Vưu sững sờ khựng lại, ngơ ngác không hiểu mình đang ở đâu, cũng chẳng
rõ mình là ai. Trước đây cũng từng có kẻ kiên trì vượt qua được Sinh
kính nhưng bước ra khỏi trận là mất hết thần trí. Vốn dĩ Bàn Cổ dùng khí âm hàn giá buốt nhất đất trời trong trận này để ví von với cuộc đời
lạnh lẽo tàn khốc, khảo nghiệm ý nghĩa cuộc sống của con người ta: ngươi vượt qua được Tử trận của Kim Giáp thần, chứng tỏ ngươi đủ năng lực
giành lấy mọi thứ mà ngươi muốn, nhưng bất kể vì danh, vì lợi, vì quyền, vì tình, vì nghĩa, chấp niệm của ngươi có thể sưởi ấm kiếp sống lạnh
lẽo của ngươi không? Có thể khiến ngươi kiên cường đối mặt với hết thảy
giá buốt trên thế gian, chống đỡ cho ngươi vượt qua phong ba bão táp
trong đời chăng?
Chỉ lát sau, Xi Vưu đột ngột vùng khỏi đống
băng tuyết đông cứng trên người, dang tay ngửa mặt nhìn trời, thét lớn:
“A Hành! Là A Hành! Ta phải tìm được A Hành!”
Hắn biết sấm sét
đã giáng xuống bên ngoài trận pháp, A Hành sắp gặp nguy ngập nên chẳng
dám chần chừ, lập tức tiến vào tượng thứ ba – Ảo kính.
Trời nhẹ
mây cao bát ngát, núi rừng xanh ngắt mênh mông, loài hoa dại không tên
nở khắp sườn đồi, khiến khung cảnh đượm vẻ bình yên mà mỹ lệ.
Xi Vưu loạng choạng chạy như điên như dại, A Hành, đợi ta, ta đến bây giờ
đây! Lần này ta quyết không làm nàng thất vọng nữa đâu!
Cứ chạy
mãi chạy mãi, đột nhiên hắn thoáng thấy Thiếu Hạo áo trắng như tuyết,
dung mạo tuấn tú, phong thái ung dung đang đứng đón gió giữa đồng hoa,
còn cười bảo hắn: “Ngươi tới chậm một bước, ta đã cứu được A Hành rồi!”
“A Hành đâu?”
Vừa dứt lời đã thấy A Hành khoan thai tiến lại, nắm chặt lấy tay Thiếu Hạo, tựa người vào y, đắm đuối ngước mắt nhìn y.
Thiếu Hạo nắm lấy tay nàng leo lên lưng Huyền điểu, ném lại một câu: “Ngươi mau ra khỏi trận đi, ta đưa A Hành về Cao Tân đây!”
“A Hành, A Hành!”
Bất luận hắn thét gọi thế nào, A Hành chỉ một mực tươi cười, tựa vào lòng Thiếu Hạo.
Xi Vưu hồn xiêu phách lạc lê bước, mặc cho Tiêu Dao sà xuống bên cạnh, xót xa nhìn hắn. Cơn giận điên cuồng trào lên trong lòng Xi Vưu, hắn rốt
cuộc có chỗ nào không bằng Thiếu Hạo? Vì sao hết lần này tới lần khác
nàng đều chọn Thiếu Hạo mà vứt bỏ hắn? Tại sao nàng không tha thứ cho
hắn, trong khi lại dễ dàng quên khuấy Thiếu Hạo từng vì nửa mảnh Hà Đồ
Lạc Thư mà bỏ rơi nàng? Lẽ nào bởi Thiếu Hạo xuất thân tôn quý, sẽ có
ngày trở thành vua một nước hay sao?
Được lắm! Ta sẽ cho nàng thấy rốt cuộc ta và y, ai mới thành vua một nước?
Nói là làm, hắn liền cưỡi Tiêu Dao quay về Thần Nông, vung kiếm huy động
đại quân, vó sắt quét qua, máu rải vạn dặm, hạ hết toàn thành này tới
tòa thành khác, diệt Hiên Viên, hủy Cao Tân, cả thiên hạ đều quỳ dưới
chân hắn, tướng lĩnh thuộc hạ hắn đồng loạt rộ lên hoan hô. Nhưng người
quỳ rạp dưới chân hắn ngày càng đông, ánh mắt mọi người càng kính sợ e
dè, hắn càng cảm thấy khó chịu, tiếng hoan hô vang trời dậy đất của bao
nhiêu người chỉ làm hắn day dứt nhớ vò rượu Du Võng lén trộm đến Thảo Ao lĩnh cho hắn.
Hắn xách rượu tới tìm Du Võng, Du Võng lạnh lùng
nhìn hắn: “Ngươi đến ban chết cho ta phải không? Nghe nói đám tướng quân kia khuyên ngươi phế tên vô dụng ta đây, tự lập làm đế.”
“Không, ta chỉ tới tìm ngươi uống rượu.”
Du Võng quay lưng lại phía hắn, bóng lưng y lẻ loi mà cao khiết, “Lòng ngươi tanh lòm những máu, làm ta phát nôn!”
Xi Vưu lẳng lặng lui ra khỏi đại điện, ngửa cổ dốc rượu vào miệng, nhưng
không sao tìm lại mùi vị xưa kia nữa. Những tháng ngày trên Thảo Ao
lĩnh, khi hắn còn chạy bằng bốn chân như dã thú, hung tợn trừng mắt nhìn Du Võng, trong khi Du Võng chỉ ngốc nghếch cười khì, dùng rượu dụ dỗ
hắn, làm thân với hắn cũng chẳng cách nào quay trở lại.
Đại quân bao vây quanh đô thành của Cao Tân, chỉ còn Cao Tân vương thất cố thủ trong thành, đây đã là trận chiến cuối cùng.
Nửa đêm, A Hành lẻn đến thổ lộ tâm tình khiến Xi Vưu hắn vui mừng vô hạn, hai người hoan lạc suốt đêm.
Nhưng ngày hôm sau, đội quân của hắn bị mai phục, vô số binh lính bị giết,
hắn trông thấy Phong Bá, huynh đệ keo sơn của hắn khắp người đầm đìa
máu, chết ngay trước mắt mình, đám Si Mỵ Võng Lượng[2] chỉ mặt A Hành
gào lên: “Là ả bán đứng chúng ta! Chính ả đã hại chết Phong Bá!”
[2] Si Mỵ Võng Lượng: theo truyền thuyết là thuộc hạ dưới trướng Xi Vưu,
sau này được dùng để chỉ chung các loài yêu ma quỷ quái. (ND)
Xa xa, Thiếu Hạo dẫn theo thiên quân vạn mã ập đến, dịu dàng gọi: “A Hành.”
Xi Vưu lạnh buốt cả người, trợn mắt nhìn A Hành, “Là nàng làm phải không? Nàng bảo Thiếu Hạo mai phục chúng ta ư?”
A Hành làm thinh, chỉ ngồi lặng.
Si Mỵ Vọng Lượng lại bày ra la liệt tội chứng của A Hành, khiến tất cả
binh sĩ kích động, mặt đầy những máu, vung giáo tuốt gươm, sôi sục căm
thù đòi giết nàng.
Xi Vưu nhìn Phong Bá ngã gục dưới chân, lại nhìn A Hành bên cạnh, lòng như chìm xuống hầm băng, đau đớn quặn lên trong dạ.
A Hành không cầu khẩn, cũng chẳng biện minh, chỉ ngẩng đầu lặng lẽ nhìn hắn.
Xi Vưu đột nhiên hồi tưởng lại những chuyện xa xưa, hoa đào nở rộ, A Hành
tay xách giày thêu, tay vén quần lụa tung tăng giữa dòng suối, đuổi theo vờn nghịch những cánh hoa rơi, muôn vàn cánh đào lả tả rụng xuống trước mặt hắn, khiến hắn chợt nhớ trước khi nàng rơi xuống Ngu uyên còn khóc
ra máu, gằn từng chữ: “Nếu hôm nay đổi lại là ta, ta sẽ tin tưởng
ngươi!” Lòng hắn từ từ lắng xuống, hết thảy mọi nôn nóng, nghi kỵ, thậm
chí đau đớn và cô đơn đều tan biến cả. Thì ra rất nhiều đau khổ trên đời này đều từ lòng mình mà ra, nếu lòng tĩnh tại thì đâu đâu cũng là miền
an lạc.
Xi Vưu kiên quyết nói với bọn Si Mỵ Võng Lượng như chém
đinh chặt sắt: “Ta tin nàng, vì nàng là A Hành của ta! Nếu các ngươi
muốn giết nàng thì phải bước qua xác ta trước đã!”
Vừa dứt lời, A Hành, Phong Bá, Si Mỵ Vọng Lượng đều biến mất cả.
Chẳng có Thiếu Hạo, chẳng thấy chiến trường, cũng không hề có máu tươi hay thi thể, hết thảy mọi thứ đều không có.
Xi Vưu ngây người ra, không dám tin rằng hết thảy giang sơn nhuốm máu, sinh tử hào tình kia chỉ là ảo ảnh!
Cảm thán thay, bóng câu qua cửa, lửa xẹt đá mài, trần ai trong mộng[3],
được rồi mất, mất rồi lại được, dường như cả cuộc đời này chỉ là một
trường ảo tưởng trong trận pháp vừa rồi mà thôi. Vui vì có được ư? Đau
bởi mất mát ư? Ảo ảnh tan rồi, điều quan trọng nhất còn đọng lại trong
lòng người là gì đây?
[3] Nguyên văn: “嘆隙中駒, 石中火, 夢中身” (Thán
khích trung câu, thạch trung hỏa, mộng trung thân), ba câu này rút từ
bài Hành Hương tử của Tô Đông Pha (1036-1101) thời Tống, có thể hiểu là: cảm thán thay, cuộc đời thoảng qua như chớp mắt, chẳng khác nào bóng
câu bay ngang cửa sổ, ngọn lửa xẹt ra khi đánh lửa hay những câu chuyện
vụt trôi qua trong cơn mộng mị. (ND)
Từ mấy trăm năm trước, khi
được Viêm Đế đưa về Thần Nông sơn, bắt đầu học làm người, hắn vẫn luôn
hoang mang lạc lối giữa đa đoan nhân tính, mãi đến lúc này, hắn mới sực
hiểu ra mình muốn có thứ gì.
Diệt Ma trận được coi là trận pháp
lợi hại nhất của Bàn Cổ, nhưng trừ trận đầu tiên, còn lại đều là đấu
tranh nội tâm, tự mình vật lộn giằng co với chính mình, lẽ nào kiếp
người cũng là như thế? Để đánh bại Kim Giáp thần cản đường, cần phải có
thực lực nhất định, nhưng chướng ngại vật chắn lối thực sự lại chính là
bản thân mình, hết thảy vui buồn được mất thật ra đều nằm trong tay mình cả, được cũng do mình, mất cũng do mình.
Xi Vưu không khỏi tự
hỏi Diệt Ma trận của Bàn Cổ, rốt cuộc dùng để diệt thứ yêu ma gì? Là ma
quái trên thế gian, hay thế gian vốn không có ma quái, mọi thứ đều khởi
từ tâm ma?
Từ xưa tới nay, vì tâm cao khí ngạo, vì chút tự ái
như có như không giấu tận đáy lòng, hắn nhất mực không chịu thừa nhận
rằng mình thua kém Thiếu Hạo, kỳ thực, hắn luôn ghen ghét đố kỵ với
Thiếu Hạo, đố kỵ trước phong thái hào hoa, thân phận tôn quý cùng mối
duyên trời ban của y với A Hành, sâu thẳm trong lòng hắn từng giờ từng
khắc đều lo sợ A Hành sẽ thay lòng, yêu càng nhiều thì nghi kỵ càng sâu, mới tạo thành thảm kịch năm xưa.
Nếu vừa nãy hắn không tin tưởng A Hành thì sẽ xảy ra chuyện gì nhỉ?
Oành oành, ùng ùng!
Tiếng sấm nổ vang trời truyền đến khiến Xi Vưu chẳng còn lòng dạ nào suy ngẫm hàm nghĩa Diệt Ma trận của Bàn Cổ nữa, hắn lập tức chấn chỉnh lại tinh
thần, rảo bước tiến vào tượng thứ tư của Diệt Ma trận – Diệt kính.
Hạt châu xanh biếc đang nằm trên phiến đá, bị xích Long Cốt chằng chịt khóa chặt, mây mù đen kịt tụ lại dày đặc phía trên, rung lên theo từng luồng sấm sét nhoáng nhoàng, như có thể giáng xuống bất cứ lúc nào.
Xi Vưu chạy như bay đến, “A Hành, ta đến rồi đây!” Y phục trên người hắn
rách tơi tả, thương tích đầy mình nhưng nét mặt và đáy lòng lại rộn lên
vui sướng.
Sấm chớp đột nhiên nổi lên ùng oàng như vô số rắn
vàng uốn éo trên không, cả nền trời đen kịt lấp loáng ánh chớp, thoắt
tối thoắt sáng.
Vô số rắn vàng từ bốn phương tám hướng đổ xô
lại, hợp thành một con rắn khổng lồ vẫn không ngừng lớn mãi, chỉ lát sau đã hóa thành một con mãng xà. Ngũ lôi giáng xuống đánh ầm một tiếng,
ánh chớp loang loáng, hệt như một con mãng xà vàng rực bổ xuống hạt
châu.
Xi Vưu vội xông tới lấy thân mình che cho hạt châu.
Đoàng!
Sấm sét giáng trúng lưng Xi Vưu, toàn thân hắn không ngừng co giật, rũ rượi nằm đè lên hạt châu.
Trước cơn thịnh nộ lôi đình của đất trời, dù là kẻ thần lực cao cường nhất
Thần tộc cũng không sao chịu nổi, chỉ trong nháy mắt, Xi Vưu đã bị đánh
đến nỗi khí tức rối loạn, linh lực tan tác.
Mây dông trên trời đang ngưng tụ lại, chuẩn bị cho đòn sấm sét nặng nề hơn.
Xi Vưu toan di chuyển hạt châu, nhưng hạt châu trước sau vẫn dính chặt lấy phiến đá như thể mọc lên từ đó, chẳng hề nhúc nhích mảy may.
Cuồng phong rít gào, mưa táp xối xả, Xi Vưu ngẩng đầu nhìn trời, thấy mây
dông đen kịt lại đè xuống hệt một trái núi, sấm chớp loang loáng tựa
từng lưỡi gươm sắc bén từ từ tụ lại, hợp thành một con rồng vàng rực
chói lòa, khiến bốn bề sáng trưng như ban ngày.
Nếu Xi Vưu còn
chút lý trí, hắn hẳn đã nhận ra mình không thể đỡ nổi đòn này. Tuy thiên lôi giáng xuống quả là đáng sợ, nhưng chỉ tấn công vào ma châu, ví như
hắn vứt hạt châu lại mà bỏ chạy, ắt vẫn còn kịp giữ mạng.
Có
điều Xi Vưu chẳng những không hề sợ sệt, mà còn cười sằng sặc, rút
trường đao rạch lên hai tay, để linh huyết từ thân thể mình chảy sang
hạt châu rồi ngẩng nhìn trời cao giọng chửi: “Nàng hút máu thì ta vui vẻ dâng máu, nàng hút linh lực, ta cũng vui vẻ dâng linh lực, việc gì đến
ngươi? Ai khiến ngươi chõ mõm vào? Ngươi dám hủy diệt nàng, ta sẽ hủy
diệt ngươi!”
Thiên lôi uỳnh một tiếng bổ xuống, từng đạo sét đều nhằm vào hạt châu, Xi Vưu tóc tai rũ rượi, hai mắt đỏ ngầu, vung trường đao chém xuống con rồng vàng rực đang nhào tới, liều mạng đối chọi cả
với trời, “Thiên đạo của ngươi quả là vô lý, ngu muội tối tăm, ta phải
hủy diệt thứ thiên đạo này!”
Mây dông ập xuống như núi, sấm sét
bổ xuống như rồng, Xi Vưu hộc ra mấy búng máu, chẳng nể tan xương nát
thịt, hồn phách tiêu tan, linh lực tản mác, gắng gượng ngưng tụ một
nguồn linh lực vượt quá sứa chịu đựng của cơ thể, lưỡi đao nở phình ra
quét ngang trời đất, mây dông sấm sét đều bị dồn ép, tốc độ chậm hẳn
lại.
Nhưng đại thể khó cưỡng, mây dông như núi lở, sấm sét tựa
rồng thần vẫn từ từ ập xuống Xi Vưu, khiến ánh đao đỏ rực dần thu nhỏ
lại, Xi Vưu lảo đảo chực ngã, ngũ quan ứa máu, máu loang đầy cả mặt, tóc tai phấp phới, trông chẳng khác nào ác ma.
“Ta nói cho ngươi
hay, Bàn Cổ tạo ra được ngươi thì ta cũng hủy diệt được ngươi!” Xi Vưu
gầm lên với trời cao, dốc toàn lực vung đao chém lên trời, cắt đôi sấm
sét sáng lòa như rồng thần đó. Oành một tiếng, mây dông tan biến, ánh
sáng rợp trời, vô số tia sét lấp loáng tựa sao băng từ người hắn bắn ra. Thân thể Xi Vưu bị đánh thủng lỗ chỗ, máu tuôn ra như suối, nhỏ xuống
hạt châu, đem theo cả linh khí cuồn cuộn trong trời đất.
Hút đủ
máu tươi và linh lực, hạt châu bỗng đỏ rực lên, uỳnh một tiếng, ánh đỏ
phụt ra xông thẳng tới chín tầng mây, đất trời lúc thì vàng rực, khi lại đỏ ối, lấp loáng chói cả mắt, sông núi cũng ngả nghiêng như sắp đến
ngày tận thế.
Thiếu Hạo đến chậm hơn Xi Vưu một bước, khi y tiến vào Tử kính của Diệt Ma trận, cũng gặp phải hai mươi tư Kim Giáp thần.
Giao đấu một hồi với Kim Giáp thần, cũng như Xi Vưu, y mau chóng phát hiện
ra khuyết điểm của bọn chúng, tuy đánh bại chúng không khó nhưng muốn
đánh bại ngay tức khắc lại chẳng dễ dàng gì, mà để cứu được A Hành, phải càng nhanh càng tốt.
Thiếu Hạo ngẫm nghĩ rồi thình lình biến
thành một vị Kim Giáp thần. Nước là cội nguồn của vạn vật, có thể tùy ý
thay đổi hình dạng, mà y lại tu luyện thủy linh, đương nhiên thừa sức mô phỏng vạn vật, Thiếu Hạo thần lực cao cường, Kim Giáp thần do y biến ra giống y như đúc, dù Hoàng Đế đích thân tới cũng không phân biệt được.
Hai mươi tư Kim Giáp thần ngơ ngác nhìn nhau, quả nhiên thấy dôi ra thêm
một người. Đột nhiên một tên Kim Giáp thần hung tợn vung tay đánh một
tên khác, tên kia trả đòn, lại đánh trúng một tên khác. Chẳng bao lâu
đám Kim Giáp thần đã quấn lấy nhau đánh đấm loạn xà ngầu, mù mịt cả đất
trời, cát bay đá chạy, mỗi đòn giáng xuống đều nặng tựa ngàn cân, trận
pháp trở bỗng chốc rối tung.
Đợi đến khi sóng yên gió lặng, đám
Kim Giáp thần kẻ cụt tay người mất chân, hết thảy đều tan thành xác
pháo, chỉ còn duy nhất một tên đứng giữa bãi chiến trường, chẳng sây sất mảy may, đột nhiên hắn mỉm cười, biến trở lại thành Thiếu Hạo.
Nhìn đống đá ngổn ngang dưới chân, Thiếu Hạo lắc đầu: “Dù sao cũng không
phải còn người có máu có thịt, hèn chi chẳng linh hoạt cơ biến gì cả!”
Nói rồi y tiếp tục bước, tiến vào tượng thứ hai của Diệt Ma trận – Sinh kính.
Gió tuyết vần vũ đầy trời, tiêu điều giá buốt. Thiếu Hạo vừa đi vừa không
ngừng cảnh giác, tâm trí cứ miên man nghĩ ngợi, tại sao tượng này lại
gọi là Sinh kính nhỉ?
Để chống chọi giá rét, y đã phải dốc hết
thần lực. Nhìn gió tuyết mịt mù phía trước, chẳng trông thấy đường,
Thiếu Hạo chỉ biết hồi tưởng lại tết thả đèn của Cao Tân, nhớ tới những
ngọn đèn lung linh muôn màu, ấm áp mà mỹ lệ, lấy đó làm động lực cất
bước.
Mỗi ngọn đèn đều do một tay ai đó thắp lên nhằm sưởi ấm
cho một người nào đó, y phải bảo vệ những ngọn đèn đó, giữ gìn hơi ấm
cho họ, nhưng còn y thì sao? Có ai từng thắp đèn vì y? Có ai bằng lòng
đem lại hơi ấm cho y?
Trời mỗi lúc một thêm lạnh buốt, nhưng y
tìm mãi chẳng thấy ngọn đèn nào thắp lên vì mình, giữa cuồng phong bão
tuyết, tất cả đèn đuốc đều dần dần lụi tắt, bóng đêm và giá rét ập đến,
buộc y nếm trải hết thảy tàn khốc và lạnh lẽo trong đời thêm lần nữa.
Lúc mẹ y qua đời, phụ vương từng hứa sẽ chăm lo cho y thật tốt, nhưng từ
khi Thường Hy bộ đưa hai chị em như ngọc như ngà tiến cung, phụ vương
liền quên bẵng mẹ y, cũng quên luôn lời hứa với bà. Phụ vương càng có
thêm nhiều con trai, y càng hiếm khi được gặp Người, hằng ngày y đều
phập phồng chờ mong được gặp phụ vương, nhưng đợi hoài đợi mãi, sau cùng chỉ thấy Đại Thường Hy thị, mẹ ruột Yến Long mỉm cười bước ra thông
báo: phụ vương chơi với Yến Long và Trung Dung đã mệt, hiện giờ đang
nghỉ ngơi, bảo y cứ về trước. Thỉnh thoảng, lúc gọi phụ vương, y đột
nhiên lo lắng, chẳng hiểu phụ vương có nhớ ra mình không? Vú già vẫn
chăm sóc y từ nhỏ cũng phụng mệnh hai chị em Thường Hy thị hạ độc y, tuy không phải độc dược chết người nhưng dần dần sẽ làm tổn thương tới trí
lực, khiến đầu óc y ngày càng sút kém, càng lúc càng ngốc nghếch, tới
chừng nào không thể tranh đoạt vương vị với Yến long được nữa. Lòng đầy
uất ức, y tưởng phụ vương sẽ làm chủ cho mình, bèn thật thà kể hết với
Người, nào ngờ Thường Hy thị làm mình làm mẩy, khóc lóc đòi tự vẫn khiến phụ vương quay quắt lại khiển trách y, mắng y mới mấy tuổi ranh mà đã
nham hiểm độc ác, rắp tâm vu vạ cho mẫu phi. Bấy giờ y mới vỡ lẽ, tòa
cung điện nơi y sinh ra và lớn lên, từ lâu đã chẳng còn chỗ cho y nữa.
Từ đó trở đi, y buộc lòng phiêu bạt giữa nhân gian, gắng gạn lọc lấy
chút hơi ấm trong ngọn lửa phừng phừng của lò rèn. Y luôn nỗ lực hoàn
thành tốt mọi chuyện, muốn làm một vị vương tử tốt trong lòng dân chúng, làm một đứa con trai ngoan của phụ vương, nhưng những cố gắng của y chỉ đổi lại được thái độ nghi kỵ ngày càng tăng của Người…
Sự lạnh lẽo vô tình trên Ngũ Thần sơn khiến y nghẹt thở.
Lạnh quá đi mất! Trên người, trong lòng đều lạnh ngắt, chẳng tìm nổi chút hơi ấm!
Tại sao không ai thắp cho y một ngọn đèn?
Đột nhiên y trông thấy mẹ mình đứng phía cuối con đường tăm tối, tươi cười
vẫy tay gọi y, như thể nói: lại đây con, sà vào lòng mẹ ngủ một giấc đi. Chỉ đợi có vậy, y mỉm cười tiến lại, đi về phía bóng đêm thăm thẳm, về
phía giấc ngủ vĩnh hằng.
Từng bước từng bước, khi cả thân hình
sắp chìm sâu vào bóng đêm, y chợt thoáng thấy một bóng người quen quen,
hơi rượu thơm nức xộc lên cổ họng, chút hơi ấm nhỏ nhoi dần dần nhen
nhóm trong lòng.
Y ngỡ ngàng ngoảnh lại, chỉ thấy gió tuyết mịt
mù, đất trời tối đen như mực, nhưng dường như xa xa thấp thoáng ánh lửa, có người đang nhen lửa, uống rượu, đợi y.
Thiếu Hạo ngơ ngác
nhìn mẹ mình đang đứng cuối con đường tăm tối, rồi lại nhìn sang đốm lửa lập lòe kia, phân vân chẳng biết nên đi về hướng nào.
Chợt y
nghe thấy tiếng chân người, bóng một thiếu nữ áo xanh mờ mờ ảo ảo vụt
qua, nắm lấy tay y, kéo y đi về phía ánh lửa lập lòe.
Chẳng hiểu sao lòng y bỗng thấy ấm áp lạ lùng, hơn nữa còn dâng lên một niềm kiên
quyết, nhất định không được từ bỏ, không thể chết tại Ngu uyên!
Ngu uyên? Ngu uyên là đâu nhỉ?
Y chẳng rõ nữa, chỉ biết chật vật lê bước về phía ngọn lửa lập lòe xa tít đằng kia, càng tiến gần đến ngọn lửa, thân thể y càng lạnh buốt, như
thể cả người đã đông cứng thành băng, mấy lần toan dừng lại nhưng hơi
rượu thơm lừng cứ vướng vất bên cánh mũi, trong cổ họng, nữ tử áo xanh
vẫn nắm chặt tay y, nhen lên chút hơi ấm trong lòng y.
Cuối cùng y cũng trông rõ gã thiếu niên ngồi bên đống lửa cười tươi tắn, còn rạng ngời lóa mắt hơn cả ánh mặt trời chói chang mùa hạ, bên tai Thiếu Hạo
chợt nghe sang sảng giọng gã: “Ta họ Hiên Viên.” Đột nhiên, y sực nhớ ra gã thiếu niên có nụ cười khiến người ta phát ghen tỵ ấy, là Thanh
Dương! Còn thiếu nữ kéo y đến đây chính là A Hành. A Hành nghiêng đầu
cười rồi biến mất, bóng Thanh Dương cũng tan đi trong màn tuyết trắng,
chỉ còn hơi ấm ngập đầy lòng y.
Bóng đêm đen kịt trước mặt dần tan biến, vầng dương bắt đầu ló dạng.
Thiếu Hạo khắp mình đầy băng tuyết, đứng ngây như phỗng, lát sau mới từ từ
bóc từng khối băng trên người ra, ngẩng đầu nhìn thái dương.
Thì ra đây chính là Sinh kính!
Y vừa ra đời đã mất mẹ, vú già nuôi y khôn lớn lại ngày ngày hạ độc y,
các đệ đệ luôn rắp tâm tìm cách hại chết y, y coi phụ vương là người cha thân yêu nhất, nhưng ông lại không coi y là đứa con thân thiết nhất…
Dường như trời cao luôn tàn nhẫn ngăn cách y với mọi người, nhưng giờ
đây y chợt nhận ra, ông trời đã ban cho y ánh lửa ấm áp mà y luôn khao
khát.
Thanh Dương, ta nhất định sẽ cứu được A Hành!
Thiếu Hạo chạy như bay về phia tượng thứ ba của Diệt Ma trận – Ảo kính.
Núi non trùng điệp, đường sá quanh co, bôn ba một hồi, y mới trông thấy hạt châu tít trên vách núi, y đánh bại mấy con yêu thú chặn đường, giao hạt châu cho Thanh Dương rồi cùng nhau nghĩ cách cứu sống A Hành.
Phụ vương cuối cùng cũng nhận ra y thích hợp làm người thừa kế hơn Yến Long, bèn truyền vương vị cho y.
Rốt cuộc y cũng hoàn thành giấc mộng từ thuở nhỏ của mình, trở thành Tuấn
Đế, bảo vệ cho từng ngọn đèn lung linh trên sông nước Cao Tân. Y dốc
lòng lo cho dân cho nước, xây dựng Cao Tân ngày một thêm tươi đẹp phồn
vinh.
Hoàng Đế phát động chiến tranh, đưa đại binh tiến về phía
Đông, sau khi đánh bại Thần Nông, cũng hủy luôn giao ước với Cao Tân. Y
bèn dẫn binh giao chiến với Hoàng Đế.
Thiên quân dấy động, vạn mã tung vó, y và Thanh Dương gặp nhau trên chiến trường, đành phải động tới binh đao.
Ánh đao bóng kiếm, máu chảy thành sông, như bao lần đánh lộn trước đây, họ
bất phân thắng bại. Sau cùng y đứng đối diện với Thanh Dương, thắng thua lần này phụ thuộc vào chính bản thân bọn họ. Có điều lần này không chỉ
là tỷ thí để phân định thắng thua, mà là quyết đấu để tranh sinh tử.
Hai người đánh nhau suốt ba ngày ba đêm, thương tích đầy mình, nếu còn dẳng dai nữa, ắt trong quân sẽ sinh biến.
Thiếu Hạo ngưng tụ linh lực toàn thân vào mũi kiếm, đâm thẳng về phía Thanh Dương, Thanh Dương cũng vung kiếm quét qua y.
Y thật sự phải lấy mạng Thanh Dương sao?
Y có thể do dự được ư? Chỉ cần thoáng do dự, y sẽ chết dưới kiếm của Thanh Dương!
Không phải Thanh Dương chết, thì là y chết!
Tròng mắt Thiếu Hạo co rút lại nhưng ngọn kiếm vẫn lấp loáng lạnh người, bổ xuống Thanh Dương.
Đột nhiên, đoàng một tiếng, ánh hồng phủ ngập bầu trời, xua tan tất cả.
Thiếu Hạo đầu bù tóc rối, máu vấy đầy áo, nắm chặt kiếm đâm tới, nhưng trước
mặt chẳng thấy một ai, Y sững sờ nhìn thanh kiếm trong tay mình, ngơ
ngác không hiểu một kiếm vừa rồi đã chém xuống chưa? Nếu không chém
xuống, Thanh Dương có giết y không? Nếu đã chém rồi, vậy…
Thiếu Hạo run lẩy bẩy, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa, y chẳng dám nghĩ tiếp nữa, chỉ biết mừng thầm vì tất cả là ảo ảnh.
Nhưng có thật đó chỉ là ảo ảnh không?
Thiếu Hạo ngẩng đầu nhìn trời cao, mãi một lúc lâu, ánh sáng chói lòa kia mới dần tan biến, mưa tạnh gió ngừng, trận pháp đã bị phá.
Hai
người hôn mê bất tỉnh nằm dài trên phiến đá, một người là Xi Vưu, dù
ngất lịm vẫn dang tay che chở cho kẻ bên dưới, kẻ kia cả người không một mảnh vải, cuộn tròn lại như đứa trẻ sơ sinh trong lòng Xi Vưu, chính là A Hành.
Thấy A Hành trần truồng, Thiếu Hạo vội quay ngoắt đi,
cởi phăng áo ngoài, gọi Xương Phó và Chu Du đứng chờ bên ngoài vào bế
nàng ra.
Phát hiện A Hành đang ôm chặt một chú chim, Xương Phó ngạc nhiên hỏi: “Sao lại có con chim ở đây thế?”
Thiếu Hạo không ngoảnh lại, thuận miệng đáp: “Hẳn là con Lang điểu đã chết theo A Hành đấy mà.”
Xương Phó nghe nói chợt sinh lòng kính trọng, bèn nhẹ nhàng gỡ Lang điểu ra khỏi tay A Hành.
Xương Phó và Chu Du vừa mặc xong y phục cho A Hành đã thấy Hoàng Đế xuất
hiện, vẻ mặt tái xanh, thần tình nhớn nhác như không tin nổi có người
phá được Diệt Ma trận. Bất ngờ bắt gặp Thiếu Hạo, Hoàng Đế sững người
hỏi: “Sao con lại ở đây?”
Thiếu Hạo cung kính hành lễ: “Nghe nói A Hành đã sống lại. con tới đón nàng về.”
Hoàng Đế đưa mắt nhìn A Hành, vẻ mặt dần dịu xuống, ông bước lại vén tay áo
nàng lên, tìm vết sẹo nơi cánh tay. Đó là vết thương hồi nhỏ của A Hành, để phạt tội nàng ham chơi, Hoàng Đế đã hạ lệnh khắc sâu vết sẹo đó lên
người nàng, mãi mãi không thể tẩy xóa. Xác nhận người này đích thực là A Hành, nghĩ lại mối liên minh với Cao Tân lại được củng cố, Hoàng Đế đổi giận làm vui, tươi cười bảo Xương Phó: “Con mau đưa Hành nhi về Triêu
Vân phong để mẫu hậu gặp mặt, hẳn bà ấy sẽ khỏe lại ngay.”
Xương Phó băn khoăn nhìn Xi Vưu đang hôn mê rồi lại phân vân nhìn sang Thiếu
Hạo, thấy Thiếu Hạo gật đầu tỏ ý mọi chuyện đã có y lo liệu, nàng mới
yên tâm ôm A Hành bay về phía Triêu Vân điện.
Hoàng Đế liếc nhìn Xi Vưu đang trọng thương ngất lịm, ánh mắt lóe lên như đã có sẵn tính
toán trong lòng. Thấy vậy, Thiếu Hạo ung dung bước tới chắn trước mặt Xi Vưu, mỉm cười hành lễ với Hoàng Đế, “Vừa nãy trên đường tới đây con
thấy đại quân Thần Nông đã đóng ngoài biên ải như đang đợi ai đó, còn
loáng thoáng nghe thấy mấy tên vô lại Si Mỵ Võng Lương bàn tán cái gì mà nếu không thấy quay về thì cứ xông vào là xong.” Mọi người đều biết
thuộc hạ của Xi Vưu toàn những kẻ xuất thân thảo mãng, ngỗ ngược khó
thuần, đến Du Võng chúng cũng chẳng coi ra gì, chỉ thần phục một mình Xi Vưu.
Hoàng Đế cười nhạt hỏi: “Con định nán lại đây mấy ngày, hay quay về Cao Tân ngay?”
Thiếu Hạo khom lưng hành lễ: “Con định ở lại mấy hôm.”
Hoàng Đế gật đầu vẻ hài lòng: “Chuyện ở đây đừng tiết lộ với kẻ khác, bất lợi cho A Hành đã đành, còn bất lợi cả cho con nữa.”
Thiếu Hạo lễ phép: “Con hiểu.”
Hoàng Đế vừa đi khỏi, Thiếu Hạo liền sai Chu Du đỡ Xi Vưu dậy, kiểm tra
thương thế một lượt, thấy hắn bị thương không nhẹ, lại sợ Hoàng Đế âm
thầm giở thủ đoạn, y quyết định tự mình đi một chuyến, “Chúng ta đưa Xi
Vưu về Thần Nông trước đã.”
Chu Du thắc mắc: “Điện hạ gặp Si Mỵ
Võng Lượng khi nào thế? Tôi cùng điện hạ tới đây, sao tôi chẳng thấy gì
cả? Nghe nói bốn người bọn họ là huynh đệ sinh tử, dung mạo giống hệt
nhau, tôi luôn muốn gặp mặt xem thử!”
Thiếu Hạo hỏi ngược lại: “Hằng ngày điện hạ nhà ngươi dạy ngươi thế nào?”
“Hỏi ít, làm nhiều.”
Nghe vậy Thiếu Hạo nhìn Chu Du cười không đáp. Bất giác, Chu Du cảm thấy tuy Thiếu Hạo tươi cười hòa nhã, nhưng ánh mắt sắc lạnh chẳng kém Thanh
Dương, đành nuốt hết bao thắc mắc vào lòng.
Một tháng sau A Hành mới tỉnh lại, nhưng người tuy tỉnh mà thần trí vẫn ở đâu đâu, cả ngày
chỉ ngây người, chẳng nói chẳng rắng, hệt như một pho tượng vô tri vô
giác.
Trước tình cảnh đó, Thanh Dương vẫn thờ ơ lạnh lùng, chẳng rõ trong lòng y nghĩ gì, chỉ thấy y sai Chu Du đi khắp nơi kiếm linh
đan diệu dược, tìm đủ cách điều dưỡng cho A Hành.
Trái với Thanh Dương, Xương Ý ngày ngày kề cận bên A Hành, dắt nàng đi khắp mọi nơi mà bọn họ từng chơi đùa hồi nhỏ, hy vọng có thể khơi gợi quá khứ của nàng.
Có điều A Hành một mực làm thinh không nói, cũng chẳng hề để lộ chút sinh
khí. Xương Ý vẫn vô cùng kiên nhẫn, nàng làm thinh cả ngày thì y một
mình lải nhải cả ngày, kể lể hết mọi chuyện khi xưa cho nàng nghe.
Ngày qua ngày, Xương Ý cứ kiên trì nhẫn lại, còn A Hành vẫn ngây ngô như cũ.
Một hôm A Hành ngồi như tượng gỗ trong sân, cúi đầu đờ đẫn ngắm ngón chân mình, như đang say ngủ, lại tựa hồ trầm tư.
Xương Phó ngồi xuống bên cạnh, nàng cũng chẳng buồn ngẩng lên.
“Lần đầu tiên ta gặp Xương Ý là khi chàng tới Nhược Thủy nhậm chức. Nghe
trưởng lão trong tộc thông báo vương tử của Hiên Viên tộc sắp tới, dặn
bọn ta không được gây chuyện, ta rất ấm ức, người Nhược Thủy bọn ta tự
tại đã quen, cớ gì phải nghe người ta sai khiến? Cuối cùng ta bèn cải
trang đi nghênh tiếp gã vương tử đó. Dọc đường, ta hoạnh họe làm nhục
Xương Ý vô số lần nhưng chàng chẳng hề tức giận, ngược lại ta dần dần bị cảm hóa bởi tấm lòng và khí phách của chàng. Quen biết chàng từng ấy
năm, ta chưa hề thấy chàng giận dữ, lần đầu tiên chứng kiến chàng nổi
cơn thịnh nộ là vì muội. Hai trăm năm trước, chàng cùng ta lên đến Thần
Nông, chỉ trong một đêm ám sát mười tám viên Thần tướng của chúng, khiến phụ vương nổi giận lôi đình, giam chàng vào Hỏa ngục. Đối với kẻ tu
luyện mộc linh, bị giam vào Hỏa ngục chính là cực hình sống không bằng
chết, phụ vương nói hễ chàng nhận lỗi sẽ lập tức thả ra, nhưng suốt một
năm trời, chàng thà chịu giày vò hành hạ đến nỗi chỉ còn da bọc xương
cũng quyết không nhận lỗi, sau cùng phụ vương đành bó tay, vừa mắng mỏ
chàng cứng đầu cố chấp, vừa bất lực thả chàng ra…”
Xương Phó cứ
thế rủ rỉ chuyện trò, thuật lại những chuyện xoay quanh Xương Ý suốt hai trăm năm qua, y đau buồn ra sao, y oán giận Thanh Dương nhường nào, khi phát hiện ma châu y đã mừng đến thế nào, rồi để cứu A Hành, y và Thanh
Dương suýt nữa đã cạn kiệt linh lực tinh huyết mà chết.
Hoàng Đế và Luy Tổ đã có mật chỉ, Thanh Dương và Xương Ý lại kín miệng như bưng
nên chẳng mấy ai biết tới chuyện ma châu, ngay cả A Hành cũng mãi đến
giờ mới biết, hóa ra nàng khó khăn lắm mới có thể tỉnh lại.
Xương Phó vuốt tóc A Hành, “Tiểu muội à, đối với muội thì chỉ là một giấc
ngủ, có lẽ muội còn tiếc nuối sao thức dậy quá mau, khiến nỗi đau trong
lòng muội chưa kịp tiêu tan, nhưng đối với Tứ ca muội đã là hai trăm năm rồi đó! Dù muội đã quên hết mọi chuyện trong quá khứ nhưng trái tim
muội vẫn là máu thịt, nhất định có thể cảm nhận được những đau buồn của
Xương Ý, ta xin muội đấy, đừng làm Tứ ca muội buồn thêm nữa. Đã hai trăm năm rồi ta chưa hề thấy chàng cười, chỉ mình muội mới có thể trả lại
cho chàng nụ cười thực sự mà thôi.”
Xương Ý xách một chú cá lại
gần, thấy thê tử và muội muội cùng ngồi dưới gốc phượng hoàng hóng mát
liền cười hỏi: “Nàng nói gì với tiểu muội thế?”
Xương Phó cười đáp: “Có gì đâu.”
Xương Ý giơ cá lên khoe với A Hành, “Tối nay ăn cá nhé?”
Thấy A Hành vẫn ngây ra như phỗng, chẳng nói chẳng rằng, Xương Ý cũng đã
quen, đành tự trả lời: “Ta đưa cá tới nhà bếp rồi quay lại với muội.”
“Dâu lạnh.”
Giọng nói rất khẽ vang lên sau lưng khiến Xương Ý đột ngột quay ngoắt lại, vẻ mặt đầy kích động: “Muội bảo gì cơ?”
A Hành đưa mắt nhìn cây dâu, vẻ mặt vẫn đờ đẫn, chỉ có giọng nói là rành rọt: “Dâu lạnh, muội muốn ăn dâu lạnh.”
Xương Ý mừng rỡ như điên, quăng luôn cả cá đi, gào lên gọi lớn: “Mẫu hậu, mẫu hậu! Đại ca, Đại ca! Mọi người mau ra đây, A Hành đòi ăn dâu lạnh này!”
Luy Tổ và Thanh Dương cuống quýt chạy ra, Xương Ý ngồi xuống bên A Hành dè
dặt hỏi, như chưa dám tin rằng nàng đã thật sự tỉnh lại: “Muội nói lại
xem, muội thích ăn gì nào?”
Luy Tổ và Thanh Dương đăm đăm nhìn nàng đầy mong đợi, nhưng A Hành chỉ trân trân dán mắt vào cây dâu, khẽ đáp: “Dâu lạnh.”
Nghe nàng nói, Luy Tổ mừng mừng tủi tủi, miệng cười mà nước mắt rưng rưng.
Thanh Dương vẫn giữ gương mặt thản nhiên, chẳng nói một lời, chỉ phất
tay giáng tuyết, có điều lòng y đang xúc động khôn cùng, linh khí bất
ổn, băng tuyết lại hóa ra mưa đá lộp độp đổ xuống, khiến mọi người trở
tay không kịp.
Xương Ý một tay che chắn cho Xương Phó, một tay
kéo A Hành chạy vào nhà, cười chế giễu: “Đại ca, huynh làm được không
thế? Hôm qua đệ vừa kể cho A Hành biết sự lợi hại của huynh, thế mà hôm
nay huynh lại làm mất mặt đệ, A Hành chứng kiến có khi chẳng nghĩ là
huynh kém, mà sẽ cho rằng đệ huênh hoang khoác lác cũng nên, phải không, tiểu muội?”
Thanh Dương căng thẳng nhìn A Hành, hồi lâu mới thấy nàng mím môi, khẽ gật đầu, y chợt thấy lòng mình ấm lại.
Xương Phó cũng góp chuyện, lắc đầu quầy quậy đùa: “Đại ca thừa sức làm ấy
chứ. Nhất định khi nãy Đại ca có mưu tính cao siêu gì đó, chẳng qua
chúng ta không nhận ra thôi, đằng sau trận mưa đá này hẳn phải ẩn giấu
tâm cơ phi thường.”
Luy Tổ phì cười, cốc cho Xương Phó một cái:
“Con bé này chỉ được cái mồm mép, lại đi đôi với Xương Ý cứng đầu cứng
cổ, cạy răng không được một câu, đúng là bù trừ cho nhau.”
Xương Phó đỏ mặt ngượng ngùng, vội giấu mặt vào vai A Hành.
Bao cảm xúc chua xót, đắng cay, ấm áp đồng loạt trào lên trong lòng Thanh
Dương, y gắng gượng trấn định lại tinh thần, từ từ mới biến được mưa đá
thành mưa tuyết.
“Nào, mình đi ăn dâu lạnh.” Xương Phó dắt tay A Hành chạy vào rừng dâu, còn vui vẻ kéo nàng quay một vòng. A Hành cũng
vui lây theo Xương Phó, dần he hé nụ cười.
Xương Phó không quên ngoảnh lại gọi Thanh Dương và Xương Ý: “Đại ca, Xương Ý, cùng đi hái dâu lạnh nhé!”
Xương Ý đùa bỡn ẩy Thanh Dương chạy lên trước, Thanh Dương tuy có phần miễn
cưỡng, nhưng vẫn không giấu được nét tươi cười nơi khóe mắt.
Luy Tổ ngồi dưới hiên nhà, ngắm nhìn các con nô giỡn dưới màn mưa tuyết, môi cười tươi tắn mà mắt rưng rưng lệ.
Sau khi chịu mở miệng nói chuyện, A Hành cũng dần dần nhớ lại những chuyện
xưa kia, có điều ký ức của nàng hầu hết đều lung tung lộn xộn, cái nhớ
cái quên, ví dụ như hỏi những chuyện thuở nhỏ, nàng có thể kể ra vanh
vách, nhưng hỏi tới chuyện khi ở Cao Tân, nàng lại quên sạch.
Thầy thuốc nói, có thể những hồi ức đó quá đỗi bi thảm nên thần thức của
nàng sau khi chịu tổn thương đã tự động loại bỏ chúng, chỉ còn ghi nhớ
những chuyện vui vẻ mà thôi.
Luy Tổ chẳng hề để tâm chuyện đó,
Xương Ý thì vô cùng mừng rỡ, lấy làm may mắn. Chỉ mình Thanh Dương ngấm
ngầm lo lắng, dẫu sao trên đời cũng có những chuyện không thể cứ lãng
quên là né tránh được.
Hoàng Đế giấu kín tin A Hành tái sinh,
người đời chỉ biết Đại vương tử phi của Cao Tân hơi khó ở, được Thiên
Hạo đưa về Triêu Vân phong tĩnh dưỡng chứ chẳng rõ đầu đuôi câu chuyện.
Xi Vưu thân mang trọng thương, đi lại cũng khó khăn, không cách nào lên
tới Triêu Vân phong được, may mà có Xương Phó lén lút đưa tin, báo cho
hắn biết sức khỏe A Hành đã khá dần lên, khuyên hắn đừng quá lo lắng.
Vừa xuống giường đi lại được, Xi Vưu lập tức tới Triêu Vân phong cầu kiến,
nhưng Luy Tổ và Xương Ý không bằng lòng cho hắn gặp A Hành.
Thanh Dương chỉ lạnh lùng nói: “A Hành không phải trẻ con, gặp hay không gặp
cứ để nó quyết định.” Nói rồi y liếc Xương Ý, “Năm xưa khi còn là một gã vô danh tiểu tốt, Xi Vưu đã dám đỡ một kiếm của ta, lẻn lên Triêu Vân,
nếu bây giờ hắn muốn gặp A Hành thì ai mà cản được?”
Nhớ lại hôm tới tìm Xi Vưu thông báo rằng A Hành có lẽ vẫn còn sống, hắn đã mững
mừng tủi tủi, lập tức vứt bỏ mọi thứ, bất chấp sinh mạng tới cứu tiểu
muội, Xương Phó quyết định đứng về phía Thanh Dương. Nàng siết tay Xương Ý, dịu giọng: “Để tiểu muội tự quyết định đi!”
Cung nữ dẫn Xi
Vưu băng qua tiền điện, chỉ cho hắn con đường mòn quanh co, “Tướng quân
cứ đi theo con đường này sẽ tới, Vương cơ đang đợi ngài.”
Xi Vưu guồng chân chạy như bay, chỉ hận không thể trông thấy A Hành ngay lập tức.
Hai bên đường trồng đầy những gốc phượng hoàng cao ngất, hoa nở đỏ rực trên cành, đong đưa đón gió, dưới đất cũng rợp một lớp hoa tàn đỏ ối. A Hành vận áo xanh đứng dưới bóng cây âm u, khiến dáng người nàng càng thêm
phần mong manh yếu đuối.
Thoạt trông thấy A Hành, Xi Vưu chợt
khựng lại, tim đập như trống làng, đắng cay và mừng rỡ đan xen trong
lòng, tương tư đằng đẵng suốt hai trăm năm, vậy mà hôm nay gặp gỡ bỗng
hóa ra gần quê[4] mà nơm nớp.
[4] Nguyên văn: ‘cận hương tình
khiếp’, chỉ nỗi lòng của kẻ xa quê lâu ngày nay mới trở về, càng gần tới quê nhà lòng dạ càng thấp thỏm lo âu, chỉ sợ ở quê đã xảy ra chuyện gì
đó không may, vật đổi sao dời. (ND)
Hắn khẽ khàng lại gần, hồi
lâu mới dám mở miệng dịu dàng gọi một tiếng “A Hành”, như sợ chỉ hơi sơ
sẩy, giấc mộng đẹp này sẽ tan đi mất.
A Hành khoan thai quay
lại, trông thấy một nam tử áo đỏ phía sau, giữa cả trời hoa rụng tơi
bời, vẻ mặt hắn mừng mừng tủi tủi, cặp mắt đen láy rực lên niềm xót xa
cùng vui sướng.
Nàng gật đầu cười, “Ta A Hành đây, ngươi là Xi Vưu của Thần Nông ư?”
Vừa nghe được nửa câu đầu, đôi mắt Xi Vưu đã sáng lên mừng rỡ, niềm vui
chân thành toát ra từ tận đáy lòng hắn khiến A Hành cũng cảm động lây,
tim đập thình thịch. Nhưng nghe nốt nửa câu sau, ánh mắt hắn liền tối
sầm lại, đau đớn trào lên trong mắt, vô duyên vô cớ, ruột gan nàng bỗng
quặn thắt như bị ai cào xé.
A Hành lộ vẻ áy náy: “Ta vừa qua cơn bệnh nặng, quên mất rất nhiều chuyện xưa kia, nghe Đại ca nói trước đây chúng ta từng quen nhau, nhưng ta thực không nhớ ra ngươi!”
Xi
Vưu không sao tin nổi, thiếu nữ áo xanh trước mắt giống hệt A Hành trong kí ức của hắn, cũng chính là người con gái hắn tương tư suốt hai trăm
năm, nguyện từ bỏ mọi thứ để đối lấy nàng, vậy mà hai trăm năm sau gặp
lại đã thành người dưng xa lạ, bao ân oán dây dưa thuở trước dường như
chưa từng xảy ra.
Thà rằng nàng căm hận hắn, còn hơn là lãng quên hắn!
“A Hành, ta là Xi Vưu, là…” Hắn là gì của nàng đây? Xi Vưu chợt khựng lại. Hắn chẳng rõ trong lòng nàng mình là gì nữa. Hắn vội hốt hoảng kể lại
mọi chuyện xưa kia giữa hai người, lời hứa dưới cội hoa đào, ân ái triền miên giữa nhà sàn…
A Hành đỏ bừng mặt quát: “Đừng nói nữa! Ta
biết cả rồi, Đại ca kể với ta, nói ta… nói ta và ngươi… là tình nhân.”
Nàng cắn môi, “Đại ca nói ngươi và Chúc Dung đã ép ta rơi xuống Ngu
uyên, có phải không?”
“Nhìn bề ngoài thì là lỗi của Chúc Dung, nhưng thực ra không liên quan tới hắn, là do ta sai.”
“Nhưng Đại ca cũng nói ngươi bất chấp tính mạng cứu sống ta.”
Xi Vưu lặng yên, bồn chồn nhìn nàng.
A Hành mỉm cười: “Ngươi hại chết ta, rồi lại cứu sống ta, chúng ta coi như dứt điểm, từ nay không ai nợ ai, được chứ?”
Xi Vưu nghe như sét đánh ngang tai, lòng quặn lên đau buốt, hắn thê thiết
nhìn A Hành, không sao tin nổi nàng lại thốt ra những lời lạnh lẽo vô
tình nhường ấy.
A Hành cười: “Có lẽ ngươi và A Hành khi trước
rất hạnh phúc, nhưng ta không phải cô ấy, những chuyện giữa ngươi và cô
ấy đối với ta chỉ như chuyện của một người xa lạ thôi, ta không muốn ôm
nỗi đau của cô ấy mà sống. Trời cao đã cho ta cơ hội tái sinh, ta muốn
bắt đầu lại từ đầu.”
Nói rồi nàng hành lễ với Xi Vưu, “Dù sao ta cũng là gái có chồng, ta và Thiếu Hạo lại không phải thường dân, hôn
nhân của chúng ta còn liên quan tới quốc thể, ngài thân là Đại tướng
quân Thần Nông quốc, hẳn có thể hiểu cho cái khó của ta. Sau này mong
Tướng quân hãy coi ta như người dưng nước lã.” Đoạn nàng giơ tay tiễn
khách, “Đại tướng quân, mời ngài về cho!”
“A Hành!” Lòng nghẹn ứ bi thương và khao khát, Xi Vưu dang tay ra như khẩn cầu, mong được ôm lấy nàng lần nữa.
A Hành phất tay áo, lập tức ngọn lửa bùng lên tận trời cao, ngăn cách nàng và Xi Vưu.
A Hành lùi lại mấy bước, vẻ không vui: “Dù trước đây chúng ta từng quen
biết, nhưng ta đã nói rõ ràng rồi, xin Tướng quân tự trọng.”
Bên kia màn lửa phừng phừng, Xi Vưu bật cười thảm thiết: “Nàng quên nhưng ta vẫn ghi tâm khắc cốt.”
A Hành cau mày bực bội: “Phụ vương nói hôm nay Thiếu Hạo sẽ tới Triêu Vân phong đón ta về Cao Tân, ta phải về thu dọn hành lý, xin Tướng quân cứ
tự nhiên!” Nói rồi nàng giũ áo đi thẳng.
Xi Vưu khao khát được
tận tay ôm lấy A Hành, linh lực của hắn cũng theo ý niệm trỗi lên, biến
ra mấy sợi dây leo vươn về phía nàng. Thấy vậy, A Hành hốt hoảng lùi
lại, thét lên thất thanh: “Ngươi định làm gì?”
Dáng vẻ hoảng hốt của nàng vẫn y hệt hai trăm năm về trước, Xi Vưu nhìn mà tê tái cõi
lòng, linh lực tiêu tan cả, mấy sợi dây leo cũng biến mất.
A Hành cuống quýt bỏ chạy, thoáng cái đã mất dạng, để lại Xi Vưu hồn xiêu phách lạc đứng ngây ra dưới gốc phượng hoàng.
Nàng đã quên, nàng quả thực đã quên rồi!
Xi Vưu chỉ thấy trước mắt tối sầm lại, hết thảy đều biến sắc.
A Hành quả thực đã quên hắn!
Hai ả cung nữ lại gần cúi người hành lễ, rồi khẽ khàng cất tiếng: “Tướng quân, Đại điện hạ sai chúng tôi tiễn ngài xuống núi!”
Chiều hôm đó, Thiếu Hạo vừa tới Triêu Vân phong, Thanh Dương liền sai cung nữ tới bẩm với A Hành.
Thấy A Hành hết thay đồ lại kiểm tra hành lý, lề mề mãi không ra, Luy Tổ
cười, khẽ đẩy vai nàng: “Sáng mai mới về kia mà, đâu phải về ngay đâu,
con lo gì chứ?”
A Hành bước ra khỏi cửa liền trông thấy Thanh
Dương, Thiếu Hạo, Xương Ý và Xương Phó đều đang ngồi trên bãi cỏ, vừa
uống rượu vừa ngắm hoàng hôn, chốc chốc lại rộ lên một trận cười, chẳng
hiểu họ nói chuyện gì. Ánh ta dương rọi lên người bọn họ một màu đỏ ối,
toát lên vẻ ấm áp khôn tả.
A Hành lặng lẽ ngắm nhìn hồi lâu rồi mỉm cười chạy lại: “Đại ca, Tứ ca, Tứ tẩu.”
Mọi người nhất loạt ngoảnh lại, Thiếu Hạo lập tức đứng dậy, trông thấy A Hành, y bỗng hơi hồi hộp.
Thanh Dương giới thiệu với nàng: “Đây chính là Thiếu Hạo, phu quân của muội, y tới đón muội về Cao Tân đó.”
A Hành bình thản hành lễ, chỉ nghe Thiếu Hạo hỏi: “Nghe Thanh Dương nói nàng đã quên những chuyện khi xưa?”
“Vâng, có những chuyện thiếp vẫn nhớ, nhưng có những việc lại quên khuấy mất.”
“Nàng còn nhớ ta không?”
A Hành hổ thẹn lắc đầu: “Thiếp chỉ nhớ mẹ và các anh thôi.”
Thiếu Hạo tỏ vẻ cảm thông: “Đó hẳn là những ký ức vui vẻ nhất của nàng, đương nhiên sẽ nhớ kỹ.”
Cả hai đều gượng gạo làm thinh, chẳng biết phải nói gì thêm nữa. Thấy vậy
Thanh Dương liền xách hồ rượu bỏ đi, Xương Phó len lén giật tay áo Xương Ý rồi cũng lặng đi nốt, để hai người ở lại.
Thiếu Hạo hỏi: “Nàng muốn đi dạo một lát không?”
A Hành gật đầu, hai người cùng sánh vai, vừa đi Thiếu Hạo vừa thủ thỉ kể
lại chuyện xưa, họ đã gặp nhau lần đầu ở Ngọc sơn ra sao, nàng từng sống ở Cao Tân thế nào, A Hành chỉ một mực yên lặng lắng nghe.
Tới bên vách núi, A Hành chợt dừng bước, Thiếu Hạo cũng dừng lại, đứng bên nàng, cùng ngắm hoàng hôn.
Bên dưới vách núi chằng chịt những dây leo, cành lá đan vào nhau xanh ngắt, giữa đám lá xanh lại nổi lên một chéo áo đỏ, chính là Xi Vưu đang đu
người bám lấy dây leo.
Hai người trên đỉnh núi gượng gạo lặng
thinh, kẻ dưới thung sâu nín thở theo dõi, chỉ có gió lồng thổi tung
muôn ngàn cánh phượng hoàng.
A Hành chợt chun mũi hít hít rồi thốt lên: “Rượu thơm quá!”
Thiếu Hạo bật cười đưa hồ rượu cho nàng, “Đây là Thư Điền tửu ta cất dựa theo bí quyết nàng tặng đó.”
A Hành uống ừng ực liền mấy ngụm cho đã thèm mới chịu trả hồ rượu cho
Thiếu Hạo, giữa lúc kẻ đưa qua, người đưa lại, bầu không khí gượng gạo
cũng xẹp bớt vài phần.
A Hành uống hơi nhanh, hơi rượu bốc lên
khiến nàng đỏ bừng hai má, mấy cánh phượng hoàng hoa vương trên tóc càng tô điểm thêm vẻ hồng hào.
Thiếu Hạo định giơ tay phủi tóc giùm nàng nhưng A Hành vô thức né đi, khiến y ngượng ngùng rụt tay lại.
“Xin lỗi!”
Hai người đồng thanh tạ lỗi, rồi đồng thời sững người, trên đời đâu có đôi vợ chồng nào lại khách khí với nhau thế này?
Vầng dương đã khuất hẳn dưới Ngu uyên, bầu trời đen thăm thẳm.
Thiếu Hạo đứng bên vách núi, vạt áo phất phơ trong gió, toát lên vẻ quạnh hiu vô hạn: “A Hành, nàng còn nhớ những lời hai ta từng nói lúc ở Ngu uyên
không?”
A Hành cau mày nghĩ ngợi một hồi rồi hổ thẹn lắc đầu: “Thiếp quên cả rồi.”
“Khi đó ta bị Yến Long đánh lén, sắp bỏ mạng tới nơi, nàng vốn có thể bỏ
chạy một mình, nhưng vì cứu ta mà kẹt lại Ngu uyên. Chúng ta cho rằng
mình đã cầm chắc cái chết, trước lúc lâm chung, ta từng nói nếu còn có
kiếp sau, chúng ta sẽ kết thành chồng vợ.”
A Hành cười, “Chẳng phải bây giờ chúng ta đang là vợ chồng đây sao?”
Thiếu Hạo lắc đầu, “Chúng ta chỉ là bất đắc dĩ bị Cao Tân và Hiên Viên trói lại với nhau mà thôi.”
Thấy A Hành làm thinh, Thiếu Hạo khẽ nói tiếp: “Kể từ khi chúng ta bước lên
cầu Nhân Duyên do Huyền điểu bắc nên, ta và nàng đã bị trói chặt vào
nhau cả đời cả kiếp, có bằng lòng hay không cũng mặc. Hiện giờ trời cao
để nàng sống lại, có lẽ cũng chính là ban cho chúng ta một cơ hội, nàng
có muốn thử không? Thử cho hai ta một cơ hội, làm vợ chồng thật sự?”
A Hành không đáp, chỉ thẫn thờ ngắm nhìn vòm trời mênh mang, chẳng hiểu đang nghĩ gì.
Thiếu Hạo lại hỏi: “Nàng còn nhớ Xi Vưu không?”
“Thiếp không nhớ.”
Thiếu Hạo toan nói thêm gì đó, nhưng bị A Hành chặn lại, “Đã quên được hắn
cũng không có gì quan trọng, thôi cứ để quên luôn đi!” Đoạn nàng cười
nhìn Thiếu Hạo, “Đại ca nói thiếp và Xi Vưu từng là tình nhân, chàng có
để bụng chuyện đó không?”
“Đương nhiên không rồi. Hai ta đã định nhân duyên từ lâu, nếu ta có lòng với nàng thì kẻ nào dám tranh đoạt
chứ, là tự ta đẩy nàng ra xa thôi.”
“Vậy sao bây giờ chàng còn muốn làm vợ chồng với thiếp?”
“Ta… ta… dạo tân hôn, chúng ta từng giao hẹn chỉ làm vợ chồng hờ.” Thiếu Hạo xưa nay luôn ung dung hoạt bát, vậy mà lúc này lại căng thẳng đến lắp
ba lắp bắp, “Giờ đây, ta thấy hối hận.”
A Hành đăm đăm nhìn
Thiếu Hạo như muốn thấu cõi lòng y. Thiếu Hạo bỗng thấy tim đập thình
thịch, dường như cả đất trời đều tan biến trong khoảnh khắc, chỉ còn lại nàng A Hành trước mặt, mỗi hơi thở tựa hồ xé nát trái tim y.
Hồi lâu A Hành chìa tay cho Thiếu Hạo, “Vậy được, chúng ta bắt đầu lại từ
đầu, bỏ qua tất cả mọi chuyện khi trước, kể từ nay về sau, thiếp sẽ làm
vương tử phi thật sự của chàng.”
Dưới vách núi chợt vang lên
tiếng thở hổn hển, Thiếu Hạo giơ tay toan đánh xuống, chợt trông thấy
một con vượn thả mình tuột khỏi vách đá, túm lấy dây leo mà đu lên cây, y liền ngừng tay, nắm chặt lấy tay A Hành, kéo nàng vào lòng, rồi dịu
dàng hôn lên trán nàng. A Hành tựa vào người y, không hề cự tuyệt.
Thiếu Hạo vòng tay ôm chặt lấy A Hành, thì thầm thề với nàng lời thề trang
trọng nhất trong đời: “Ta không chỉ muốn một vị vương tử phi, mà còn
muốn nàng một lòng một dạ làm vợ ta suốt đời suốt kiếp này.”
A
Hành run bắn cả người, toan ngẩng lên nói gì đó nhưng bị Thiếu Hạo ngăn
lại, “Đừng nói gì cả, ta không muốn nghe gì hết, nàng chỉ cần nhớ lấy
lời thề của ta là đủ.”
A Hành cảm nhận được bàn tay y khẽ run
rẩy như một lời khẩn cầu thầm lặng, hồi lâu, nàng ngả đầu vào vai y, từ
từ nhắm nghiền mắt.
Hỏa minh châu treo trong sơn đình tỏa ánh
hồng rực rỡ, rọi sáng cho Thiếu Hạo và A Hành, bóng hai người hắt lên
vách núi đối diện, má tựa vai kề, vô cùng thân mật âu yếm.
Xi Vưu tựa lưng vào vách núi, bám chặt lấy dây leo, treo mình lơ lửng trên không, vừa khéo đối diện với hai cái bóng trên vách.
Sắc mặt hắn tái mét, cặp mắt trân trân dán vào hai bóng người kề cận nhau
trên vách núi, gió núi lồng lộn thổi, dây leo đu đưa khiến thân hình hắn lắc lư theo, hệt như một chiếc lá khô trơ trọi lay lắt trên cành, chỉ
chực buông mình theo gió.