Hoa đào lả tả rợp trời, phớt qua má nàng, đậu lên vai nàng, chuyên xưa
cũng lần lượt hiện ra rành rành trước mắt. Ngày này năm ngoái, nàng còn
hăng hái bày biện nhà cửa, dạt dào hy vọng kề bên nhau suốt cuộc đời.
Chẳng ngờ nhà vẫn đây mà duyên đã dứt.
Từ nay về sau, đào nở, họ sẽ mãi mãi không thể gặp nhau dưới cội hoa đào được nữa.
Truyền thuyết kể rằng, trên đại hoang có năm thánh địa. Thang cốc, nơi mặt
trời mọc, Ngu uyên, nơi mặt trời lặn, Quy khư, ngàn vạn con nước đổ về
và Ngọc sơn, nơi hội tụ ngọc linh – bốn thánh địa này tuy người thường
khó mà đến được, nhưng dù hung hiểm như Ngu uyên cũng có người bôn ba
tới tận nơi, duy chỉ có Bắc Minh và Nam Minh, được gọi là hai đầu trời
đất chưa ai đặt chân đến, chỉ nghe nói hai chỗ đó được gọi là Nam Bắc
Minh, nơi cực Nam và cực Bắc hợp lại làm một, càng chẳng hiểu sao rõ
ràng một ở cực Nam, một ở cực Bắc mà lại gọi là Nam Bắc hợp nhất.
Vì chưa ai từng đến nên người đại hoang hầu như không tin có Bắc Minh và
Nam Minh[1], nhưng trên đời vẫn tồn tại một loài thú thần tên gọi là
Côn, đến từ Bắc Minh, nguyên hình là cá, vừa ra đời đã có thể hóa đại
bàng, tương truyền một lần sải cánh có thể bay xa chín vạn dặm. Côn
không xưng thần với rồng, cũng không cúi đầu trước phượng, sinh ở Bắc
Minh, chết lại về Nam Minh.
[1] Theo Tiêu dao du của Trang Tử:
Bắc Minh có loài cá, tên gọi là Côn, thân lớn không biết mấy nghìn dặm.
Khi biến thành chim gọi là Bằng (đại bàng), sống lưng rộng không biết
mấy ngàn dặm. Mỗi khi cất cánh bay lên, sải cánh che phủ cả bầu trời.
Lúc là đại bàng, thường theo sông đào mà đến tận Nam Minh.
Vì Côn có thực, nên sử sách vẫn chép rằng trên đại hoang còn có một thánh địa thứ năm, gọi là Nam Bắc Minh.
Từ đại hoang đi thẳng về hướng Bắc, sẽ đến một vùng hoang dã, băng phủ
ngàn năm, tuyết rơi vạn dặm, đi mãi không thấy bến bờ, dù người của Thần tộc thần lực cao cường cũng không sao vượt qua nổi đồng hoang mênh mông tuyết trắng ấy.
Phía cuối đồng hoang bao la buốt giá ấy có một hồ nước thiên nhiên, chính là Bắc Minh.
Tiêu Dao tha thân thể bị ngũ linh phá hủy, chỉ còn thoi thóp của Xi Vưu thả
xuống Bắc Minh. Nó làm vậy hoàn toàn dựa vào bản năng của muôn thú, hễ
gặp nguy hiểm hoặc bị thương thì quay về nhà tìm nơi trú ngụ.
Xi Vưu nổi lềnh bềnh giữa Bắc Minh, dở sống dở chết, mê man bất tỉnh, mặc
cho Tiêu Dao lay gọi. Dần dà Tiêu Dao cũng chán, bèn để mặc hắn nằm đó,
bơi đi ngao du khắp Bắc Minh. Bắc Minh rộng mênh mông, xưa nay nó chưa
bao giờ đến được tận cùng, thỉnh thoảng nó cũng nảy dạ tò mò, đi hết đại hoang sẽ đến một vùng băng tuyết, vượt qua đồng băng sẽ đến Bắc Minh,
vậy nếu băng qua cả Bắc Minh thì sao? Có lẽ tới khi chết, nó mới giải
đáp được câu hỏi này.
Hôn mê hơn ba trăm ngày đêm, cuối cùng Xi
Vưu cũng tỉnh lại. Vừa mở mắt, trông thấy Tiêu Dao mừng rỡ lượn vòng
quanh mình, Xi Vưu toan giơ tay chạm vào nó, nhưng chẳng nhúc nhích nổi
một ngón tay.
Hắn cảm giác mình đang bồng bềnh trong nước, có điều thứ nước này rất lạ, hệt như một loại máu màu lam căng tràn nhựa sống.
Xi Vưu tự ngộ được đạo trời, tuy chẳng có lý luận phương pháp gì nhưng hắn hiểu rất rõ thế nào là hòa hợp với tự nhiên, bèn thả lỏng thân thể,
trút bỏ cái tôi hòa mình vào Bắc Minh rồi cười hỏi Tiêu Dao: “Đây là Bắc Minh, nơi mày sinh ra ư?”
Tiêu Dao quẫy đuôi, té nước vào mặt
Xi Vưu như oán trách: Nếu chẳng phải vì cứu ngươi, đời nào ta chịu mang
thứ dơ bẩn như ngươi về nhà.
Xi Vưu phá lên cười sằng sặc, cười mãi cười mãi, đột nhiên hắn sực nhớ lại những chuyện đã xảy ra.
Du Võng chết rồi!
Chính Hoàng Đế giết chết Du Võng!
Trong cơn cuồng nộ, hắn đã giết chết Hoàng Đế!
A Hành… nàng chắc đã biết cả rồi, giờ nàng có khỏe không?
Xi Vưu thầm thở dài, nhắm nghiền mắt, những hình ảnh chập chờn đứt quãng cứ xẹt qua xẹt lại trong đầu.
Dường như hắn thấy có đến hai vị Hoàng Đế, nghe tiếng A Hành thét lên, hắn
nảy đom đóm mắt, thoáng thấy A Hành bay vụt về phía mình, vẻ mặt đau đớn tột cùng… rốt cuộc cái gì là thật, cái gì là mơ?
Xi Vưu mở trừng mắt, toan gượng dậy, liền bị Tiêu Dao hậm hực quật đuôi vào mặt.
Hắn khó nhọc lên tiếng: “Ta phải về.”
Tiêu Dao lập tức há miệng phun ra vô số bong bóng nước, trông như thể chạm
vào là vỡ, nào ngờ chúng lại khóa chặt tay của Xi Vưu dính vào mặt nước, bất kể hắn vùng vẫy ra sao cũng không làm vỡ nổi. Rõ ràng đây là địa
bàn của Tiêu Dao, ở đây, Tiêu Dao mới là lão đại.
Cứng không
được, Xi Vưu bèn đổi sang mềm, dịu giọng nài nỉ: “Tiêu Dao, nếu ta lỡ
tay giết chết Hoàng Đế, nhất định A Hành sẽ rất đau lòng, ta phải đi an
ủi nàng. Còn nếu không phải ta giết lão thì các huynh đệ của ta hẳn đang ác chiến với lão, ta không thể để họ chiến đấu một mình được.”
Tiêu Dao vừa tung tẩy bơi vừa phun bong bóng nô giỡn, chẳng buồn để ý đến Xi Vưu. Dù sao nó không phải là A Tệ ngốc nghếch để Xi Vưu quay như dế.
Xi Vưu lại nói: “Năm xưa chúng ta cắt máu ăn thề, mày cũng ở đó kia mà,
bọn họ không phụ ta, ta há lại phụ họ hay sao? Mày tưởng mấy cái bong
bóng ấy trói được ta à? Dẫu có phải bò, ta cũng quyết quay trở về!” Tiêu Dao nghe nói chỉ quẩy đuôi bơi ra xa, từ nhỏ, nó bị Xi Vưu dọa dẫm đã
quen, cứng mềm gì đều không ăn thua.
“A, phải rồi! Ta vừa nhớ
ra, hồi đó cắt máu ăn thề, ta cũng trích ở chân mày vài giọt máu đấy,
giờ mày lại định làm giống đại bàng bội tín bạc nghĩa à?”
Tiêu Dao quay ngoắt lại, trợn trừng đôi mắt cá nhìn Xi Vưu, hồi đó nó thấy hay hay nên chen vào góp vui thôi mà, không tính!
Xi Vưu cười ranh mãnh “Mặc kệ!Mày chích máu rồi, cũng uống rượu rồi, không được lật lọng!”
Tiêu Dao phì phì phun ra một chuỗi bong bóng nước rồi lặng yên ngẫm nghĩ, lát sau, nó vẫy vẫy đuôi.
Xi Vưu hiểu ý Tiêu Dao, nó muốn nói thể trạng Xi Vưu phải nghỉ ngơi một thời gian nữa mới được.
Tiêu Dao lặn xuống đáy nước, không nổi lên nữa.
Xi Vưu hiểu Tiêu Dao đã quyết định thì đừng hòng thay đổi, hắn chỉ có thể
tranh thủ thời gian dưỡng thương cho mau khỏe lại mà thôi.
Vừa toan nhập định trị thương, hắn sực nhớ ra một chuyện, liền vọt miệng hỏi: “Tiêu Dao, ta hôn mê bao lâu rồi?”
Lâu thật là lâu, vẫn không thấy Tiêu Dao trả lời, có lẽ là tính không ra. Đối với chúng, thời gian chẳng có ý nghĩa gì cả.
Xi Vưu đổi sang hỏi bằng cách khác: “Mày bay đến sườn núi phía Bắc đại
hoang, bẻ một cành đào về đây cho ta. Nhanh lên nhanh lên, quan trọng
lắm đó!”
Tiêu Dao nghĩ là trò chơi bèn vọt lên khỏi mặt nước,
biến thành đại bàng, nháy mắt đã mất hút. Hồi lâu, nó ngậm một cành đào
đang kết nụ bay về.
Vùng núi phía Bắc khí hậu lạnh lẽo vậy mà
hoa đào đã bắt đầu kết nụ, chắc hẳn ở Trung nguyên bây giờ đang là tiết
hoa đào nở rộ, hắn đã ngủ ròng rã một năm trời.
Xi Vưu nghiêm mặt bảo Tiêu Dao: “Thả ta ra đi, ta phải về gặp A Hành.”
Tiêu Dao trố mắt nhìn hắn như muốn hỏi: Ngươi muốn chết hả?
“Thả ta ra!”
Tiêu Dao thở hồng hộc, trợn mắt nhìn Xi Vưu, bất động.
Xi Vưu không buồn nhiều lời, chỉ nghiến răng gắng bức máu trong tim ra,
chẳng nề dùng thọ mạng đổi lấy sức mạnh, phá vỡ trói buộc của Tiêu Dao.
Thấy vậy, Tiêu Dao vừa giận dữ đập cánh phành phạch, vừa rít lên với
hắn: Ta không chở ngươi về, ngươi có phá vỡ trói buộc cũng công cốc!
Xi Vưu bập bềnh nổi trên mặt nước, nhanh nhẹn rạch tay mình, nhúng cành
đào Tiêu Dao vừa bẻ vào máu tươi rồi hóa phép biến nó thành một con
chim, cắn đầu lưỡi phun tinh huyết lên cành đào, dùng một trăm năm thọ
mạng để biến cành đào kia thành một con chim.
Tiêu Dao nín bặt, trợn mắt kinh hoàng nhìn Xi Vưu, nó quên khuấy rằng hắn vốn là kẻ liều mạng, nói được làm được.
Xi Vưu cưỡi lên lưng chim, ngoảnh lại cười với Tiêu Dao: “Ta biết mày lo
cho ta, nhưng ta đã hẹn với A Hành, dưới cội hoa đào, không gặp không
về, thất hẹn hai lần rồi, nhất định không thể thêm một lần thứ ba nữa.”
Chú chim cõng Xi Vưu bay thẳng về hướng Nam.
Tiêu Dao ngây ra nhìn sững theo bóng hắn mãi tới khi mất dạng, mới đột nhiên sực tỉnh, lập tức đuổi theo.
Trông thấy Tiêu Dao bay đến, Xi Vưu chẳng hề tỏ vẻ bất ngờ, chỉ cười cười nhún mình nhảy lên lưng nó: “Làm phiền nhé!”
Tiêu Dao cõng Xi Vưu trở về Trung nguyên.
Từ xa hắn đã trông thấy nước dâng trắng xóa đất trời, cuồn cuộn đổ về
Trạch Châu, đang lúc căng thẳng, hắn đã nghe thấy một tiếng hú thê lương mà quen thuộc, chẳng đợi hắn ra lệnh, Tiêu Dao đã lần theo âm thanh bay vụt đến.
A Tệ không biết bơi nhưng cứ bì bõm dưới nước, như thể kiếm tìm gì đó, hết lần này sang lần khác, nó cứ ngụp đầu lặn xuống,
mãi đến khi nghẹt thở mới ngoi lên, hú vang thảm thiết, hít một hơi thật sâu rồi lại liều mạng ngụp xuống.
Có thể khiến A Tệ thương tâm như thế, chỉ có A Hành và Liệt Dương, Xi Vưu lòng như lửa đốt, vội hỏi: “A Tệ, A Hành đâu rồi?”
A Tệ trừng trừng nhìn Xi Vưu giây lát, tựa hồ nhận định thật hay giả rồi cắn chặt chéo áo hắn, nước mắt lã chã.
Xoáy nước cuồn cuộn dưới sông hệt như một con mãng xà, nhấn chìm A Hành xuống vực sâu thăm thẳm.
Đôi tay ôm lấy bụng càng lúc càng rời rã, A Hành đã hoàn toàn kiệt sức,
trong khi đó, một vòng xoáy lớn hơn lại phăng phăng cuốn tới, nuốt chửng nàng.
A Hành òa khóc vì tuyệt vọng, rồi lại phẫn nộ khẩn cầu,
nhưng mọi cố gắng đều rơi vào thinh không. Giữa bóng tối vô biên, nàng
chỉ thấy mình bị một luồng sức mạnh long trời lở đất dìm xuống tận đáy
của sự sống.
Cả người A Hành xoay tít theo xoáy nước, rơi thẳng
xuống đáy sâu, hơi thở cuối cùng cũng bị dòng nước xiết nuốt chửng, nàng không sợ chết, nhưng còn đứa nhỏ… Xi Vưu, Xi Vưu, chàng ở đâu rồi?
Xi Vưu… Xi Vưu…
Đột nhiên, một bóng áo đỏ nhanh như chớp lao vào giữa xoáy nước, ôm chặt
lấy A Hành, mái tóc pha lẫn sợi bạc xõa tung như hai tấm bình phong,
ngăn dòng nước lại. Sóng dữ ngợp trời khiến nhật nguyệt cũng phải biến
sắc, vậy mà cơn hồng thủy hung hãn như mãnh thú đó lại e dè nhường bước
trước Xi Vưu, vòng qua người hắn rồi chảy tiếp.
Không kịp kéo A Hành ngoi lên, Xi Vưu chỉ còn cách cúi đầu hôn A Hành, phà không khí trong lành vào miệng nàng.
A Hành ho sặc lên, từ từ mở mắt ra.
Vừa mở mắt, nàng liền trông thấy gương mặt tái mét của Xi Vưu đang mỉm cười nhìn mình. A Tệ cưỡi lên lưng Tiêu Dao bấy giờ đã hóa thành cá, nhe
răng cười không khép được miệng, trong khi Tiêu Dao phồng mang trợn mắt
vẻ giận dữ.
Sóng dữ vẫn cuồn cuộn rít gào xung quanh, nhưng giữa vòng tay chàng, chỉ có bình yên.
“Ta đang mơ ư?”
Xi Vưu dụi đầu vào mặt nàng: “Không đâu!”
A Hành giàn giụa nước mắt, yếu ớt than: “Ta gọi chàng mãi, gọi đến khan cả họng, còn tưởng chàng không tới nữa chứ.”
Xi Vưu dịu giọng dỗ dành: “Nàng quên rồi sao? Dưới cội hoa anh đào, không
gặp không về, ta đã hứa với nàng sẽ không thất hứa lần nữa mà, sao có
thể không tới chứ?”
A Hành mừng mừng tủi tủi, “Tiếc rằng nơi này chẳng phải Cửu Lê, cũng chẳng phải dưới cội hoa đào.”
Xi Vưu cười: “Chờ ta giải quyết xong trận hồng thủy này, sẽ đưa nàng đi ngắm hoa đào.” Nói rồi hắn lao vút lên mặt nước.
A Hành hai tay ôm bụng, rúc vào lòng Xi Vưu, nàng đã hoàn toàn kiệt sức,
bải hoải đến từng lỗ chân lông, nhưng có vòng tay hắn chở che, dù phong
ba bão táp xung quanh dữ dội chừng nào, nàng cũng chẳng sợ.
Ứng Long phụng lệnh Hoàng Đế cắt đứt nguồn nước của Trạch Châu, có điều y vẫn ngỡ đây là kế công thành như lần trước.
Nghe kèn hiệu xung trận, y cùng Hiên Viên Hưu tập trung quân lên gò đất cao, chuẩn bị tấn công Trạch Châu, thì lại được lệnh của Di Bành án binh bất động.
Ứng Long lấy làm lạ, nhưng vẫn đứng yên tại chỗ đợi lệnh.
Trạch Châu thành nằm lặng bên bờ Hoạch Trạch cạn khô, từ xa trông lại, chỉ
thấy từng vệt từng vệt sáng loang loáng, chính là khôi giáp của binh
tướng phản chiếu ánh mặt trời, đủ biết trong thành phòng bị nghiêm ngặt
tới đâu.
Hồi kèn vừa rúc như một lời tuyên cáo: nếu Trạch Châu
thành không chịu đầu hàng, Hiên Viên tộc sẽ phát động tấn công. Lập tức, tất cả các binh sĩ trong thành đều căng thẳng chuẩn bị ứng chiến.
Phong Bá mặc võ phục sát người, ngoài áo khoác choàng đen, hiên ngang đi giữa hàng quân, cả Trạch Châu đều im phăng phắc, chỉ nghe thấy tiếng chân
hắn. Bước lên thành lâu, hắn cao giọng nói: “Quân Hiên Viên đông gấp năm lần chúng ta nên nếu các ngươi muốn bỏ chạy, ta cũng rất thông cảm, ai
không muốn đánh thì rời hàng ngũ ngay đi.”
Đợi một hồi, chẳng
thấy ai bước ra, Phong Bá bật cười sảng khoái: “Các huynh đệ, đã vậy
chúng ta quyết tử chiến đến cùng! Vì Xi Vưu!”
“Vì Xi Vưu!”
Tiếng ba quân hô theo vang dội cả đất trời.
Phong Bá tươi cười, đưa mắt nhìn gã gù đứng khuất trong góc tối, mặt gã đeo
một chiếc mặt nạ bạc, tỏa ánh sang lạnh lẽo, cộng thêm ngoại hình dị
dạng khiến người ta vừa thấy đã gớm, chỉ muốn quay đi.
Kẻ gù
mang mặt nạ này chính là Vũ Sư mà Phong Bá hằng kính trọng, hai người
bọn họ đã đồng lòng hợp sức đẩy lùi bao đợt tiến công của Hiên Viên.
Hai bên trao đổi một ánh mắt, đều thấu rõ quyết tâm tử chiến của đối phương.
Phong Bá mỉm cười nhoài người trên đầu thành, nhìn về phía quân lính Hiên
Viên, thấy họ án binh bất động, hắn lấy làm thắc mắc: Lẽ nào chúng không hiểu sĩ khí chỉ sôi sục chốc lát, giằng dai càng lâu, sĩ khí sẽ từ từ
suy giảm sao?
Thấy dòng Hoạch Trạch cạn khô, lại quan sát kỹ thế trận Hiên Viên, Phong Bá nghĩ chắc đối phương không thể xả nước công
thành. Nếu xảy ra, nước Hoạch Trạch ào ào trút xuống như thác lũ, quân
lính bên đó sẽ bị cuốn trôi trước.
Đột nhiên, hắn nghe thấy mấy
tiếng nổ chát chúa, trên trời bỗng xuất hiện vô sô con cá đỏ ối như ráng chiều, sáng rực cả bầu trời, binh sĩ hai bên đều hiếu kỳ ngẩng đầu lên
nhìn.
Ứng Long xuất thân từ Thủy tộc, cảm giác rất nhạy bén, y
liếc nhìn phía cuối chân trời, lập tức tái mét mặt, rít lên nhìn Di Bành ngạo nghễ đứng trên cao: “Cửu điện hạ, ngài định làm gì thế?”
Di Bành chỉ cười không đáp. Bấy giờ Ứng Long mới bàng hoàng nhận ra, trong mắt Di Bành, Ứng Long và binh sĩ của y đều là người của Thanh Dương, Di Bành chẳng những muốn trừ khử Thanh Dương mà còn muốn nhổ cỏ tận gốc,
diệt sạch những người ủng hộ Đại điện hạ.
Phong Bá ngẩn cao đầu
nhìn bầy cá tung tăng bơi lội trên không, dường như đã phát hiện ra gì
đó, nheo nheo mắt trông về phía chân trời, đột nhiên, hắn giật thót
mình, sững sờ không dám tin Di Bành lại điên cuồng phạm vào trọng tội
trong trời đất, xả nước nhấn chìm Trạch Châu thành, khiến sinh linh đồ
thán, thậm chí nhẫn tâm tuẫn táng cả quân đội của mình.
Phong Bá nghi hoặc đưa mắt nhìn Vũ Sư, Vũ Sư liền khẳng định chắc như đinh đóng
cột: “Di Bành điên rồi!” Giọng hắn khàn khàn như thể bị bỏng họng.
Sấm rền dậy đất, nước lũ ngợp trời ào ào đổ đến, thoạt thấy một sợi chỉ
trắng bạc lấp lánh chậm rãi bò tới, thoắt chốc, nước đã dâng trắng xóa
đất trời.
Khắp nơi nhốn nháo tiếng chim thú kêu gào, nước lũ cuốn tới đâu, sinh linh tan tác tới đấy.
Nhìn cảnh thê lương trước mắt, Phong Bá chỉ biết thở dài, nước từ ba con
sông đổ dồn lên, thế mạnh như chẻ tre, có thể sánh ngang với kiếp nạn
trời giáng, sức người không cách nào xoay chuyển nổi. Hắn sớm đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng hắn muốn chết hiên ngang trên sa trường
chứ không phải chết oan chết ức như thế này.
Binh lính canh gác trên thành bẩm: “Ngài biết cưỡi gió mau chạy ngay đi, hồng thủy có nhanh mấy cũng không đuổi kịp ngài đâu.”
Phong Bá đưa mắt nhìn Vũ Sư cười bảo: “Ngươi tu luyện thủy linh, hồng thủy lớn tới đâu, muốn giữa mạng chắc cũng không khó.”
Vũ Sư trân trân nhìn nước lũ cuồn cuộn ập đến, hờ hững đáp: “Trạch Châu bị phá thì Thần Nông sơn cũng khó toàn, nếu quân Hiên Viên muốn tấn công
Thần Nông sơn, phải bước qua xác ta trước đã.”
Phong Bá vỗ vỗ
vai Vũ Sư rồi quay sang các binh sĩ khuyên mình chạy trốn: “Từ đầu ta đã nói rõ với Xi Vưu, ta chẳng có hứng thú gì với quyền lực, chỉ muốn cùng y sánh vai tác chiến thế thôi. Đi với y cũng như đi với luồn gió lốc
mạnh nhất trên đời vậy, chẳng gì gò bó nổi, muốn đến đâu thì đến. Các
ngươi từng thấy gió trốn chạy bao giờ chưa? Dù đụng phải thứ gì đi nữa,
gió chỉ biết thổi thốc tới mà thôi!”
Dứt lời Phong Bá cười ha
hả, cởi bỏ áo choàng, hiên ngang đối diện với cơn sóng dữ ngợp trời đang ập tới. Vũ Sư cũng rút thần khí Vũ Hổ của mình ra, chiếc mặt nạ trên
mặt tỏa ánh sáng lành lạnh.
Sau lưng bọn họ, tất cả binh sĩ đều
nhất loạt rút vũ khí, quên cả tính mạng, cười cười nói nói bàn luận thế
nước nhỏ to, còn hẹn nhau tỉ thí bản lĩnh cưỡi sóng đạp gió.
Dù phải chôn thây trong trận đại hồng thủy này, họ cũng phải cưỡi lên đầu ngọn sóng, đùa với thủy triều mới cam tâm!
Trong khi đó, quân sĩ Hiên Viên đang kêu la khóc lóc loạn cả lên.
Tùy tùng của Ứng Long khuyên y nên đi. Ứng Long vốn là rồng, nước lớn tới
đâu cũng thừa sức bỏ đi, nhưng y chỉ điềm đạm bảo chúng thuộc hạ: “Các
ngươi chạy mau đi, thoát được bao nhiêu hay bấy nhiêu.”
Thấy đám tùy tùng định khuyên tiếp, Ứng Long xua tay đi, đi thẳng xuống dưới,
xuất cả nguyên thần ra, quyết dốc cạn linh lực và sinh mệnh ngăn cơn
hồng thủy lại.
Y biết mình không thể địch nổi thế nước dữ dội nhường này, nhưng ít ra, y chết cũng không hổ thẹn.
Di Bành và Hiên Viên Hưu đóng quân ở nơi địa thế cao nhất, Hiên Viên Hưu
có phần bất nhẫn, chẳng nỡ nhìn, bèn quay đầu đi chỗ khác, chỉ mình Di
Bành tươi cười thưởng thức thảm cảnh trước mắt.
Nước lũ ngợp trời cuồn cuộn ập tới, bị linh lực của Ứng Long tạm thời chặn lại.
Nhưng trận hồng này do dòng nước tích tụ suốt một tháng của ba con sông dồn
lại, dù linh lực của Ứng Long cao cường tới đâu chăng nữa cũng tới lúc
cạn kiệt, trong khi nước lũ cứ cuồn cuộn không thôi.
Ứng Long bị ép bật ra khỏi bản thể, hóa thành một con rồng xanh nằm chắn ngang dòng nước.
Nước lũ càng dồn lại càng lớn, nhưng không sao phá nổi sức ngăn của Ứng Long.
Trước sức ép khủng khiếp của dòng nước, vẩy rồng trên mình Ứng Long bắt đầu
ứa máu, máu loang đỏ thân rồng, nhuộm đỏ cả lòng sông.
Phong Bá đứng trên thành, gõ nhịp than: “Hảo hán tử! Nếu bỏ mạng dưới tay kẻ này, ta cũng thỏa lòng! Đáng hận! Đáng hận!”
“Đáng hận gì thế?” Bóng áo đỏ nhoáng qua trước mặt Phong Bá, từ trên không nhảy xuống đầu thành.
“Xi Vưu!”
“Đại ca!”
Bốn bề rộn lên tiếng hoan hô, mọi người đều hân hoan mừng rỡ.
Xi Vưu vội đưa tay lên miệng suỵt khẽ, nhưng chẳng kịp, A Hành đã tỉnh
giấc. Vừa mở mắt, trông thấy xung quanh toàn người là người, bao cặp mắt sáng rỡ đổ dồn vào mình. A Hành không khỏi đỏ bừng mặt, gắng gượng đứng xuống.
Phong Bá thụi cho Xi Vưu một quả, hỏi: “Đại tẩu đấy à?”
Xi Vưu một tay đỡ A Hành, tay kia thụi lại Phong Bá, một năm qua, tuy trời đất xoay vần nhưng tấm lòng nam tử, tình nghĩa huynh đệ vẫn nồng nàn
như thế, chẳng nói vẫn hiểu được lòng nhau.
Phong Bá trỏ Vũ Sư
giới thiệu, “Đây là Xích Tùng Tử, ngoại hiệu Vũ Sư, huynh đệ kết bái của đệ sau khi huynh mất tích, huynh đệ của đệ cũng là huynh đệ của huynh.” Tín nhiệm của đàn ông với nhau vốn chẳng cần nhiều lời, chỉ một câu đã
có thể giao phó tất cả.
Vũ Sư tuy xấu xí quái dị nhưng lời nói cử chỉ rất lễ độ nho nhã, vội hành lễ ra mắt Xi Vưu.
Phong Bá giơ ngón cái, chỉ chỉ đằng xa cười hì hì bảo Xi Vưu: “Đừng bảo đệ là huynh tới đây tìm chết đấy nhé, có điều…” Hắn ngắm nghía Xi Vưu từ trên xuống dưới, lắc đầu: “Hình như huynh đến tìm chết thật.”
Sóng
dữ dâng cao như núi, “ngọn núi” càng cao thì Ứng Long càng đuối sức dần, nhìn đỉnh núi rung rinh chực đổ ập xuống, mọi người đều hiểu, chỉ cần
“ngọn núi” kia đổ xuống thì tất cả sẽ chết không có chỗ chôn.
“Đỉnh núi” càng lúc càng rung lên dữ dội.
Xi Vưu vội nói: “Nước lớn như vậy không thể ngăn được, chỉ có thể lựa theo thế nước, mở đường cho nó chảy thôi. Cơn hồng thủy lớn thế này không
thể dẫn từ xa tới, dọc đường đến đây, ta thấy ba dòng, Hoạch Trạch, Thấm hà và Đan hà đều cạn trơ đáy, nên biện pháp duy nhất hiện giờ là chia
dòng nước lũ thành ba đường, để nó đến từ đâu thì lại chảy về đó. Làm
vậy tuy không thể hóa giải nạn lụt nhưng ít ra cũng cứu được một số
người. Phong Bá, đệ dẫn người phụ trách Hoạch Trạch, Vũ Sư, ngươi lo
phần Thấm hà, còn ta sẽ dẫn nước về Đan hà.”
Mấy tên thuộc hạ
linh lực cao cường trợn mắt nhìn đỉnh lũ càng lúc càng cao, mặt xám như
tro, lẩm bẩm: “Sao mà làm được, có khi lại như con yêu long kia, cạn
kiệt linh lực, bỏ xác dưới đáy nước không chừng.”
Xi Vưu phá lên cười, “Nếu dễ làm như vậy thì còn gì thú vị? Dựa vào năng lực bản thân, biết rõ không thể làm mà vẫn làm mới là bản sắc của đại trượng phu!”
Phong Bá giũ giũ áo choàng, khoác lên người, cười bảo Xi Vưu: “Đệ thì không
thành vấn đề, chỉ hy vọng chút nữa huynh vẫn giữ được mạng mà về, đừng
làm mồi cho cá thôi.”
Ngoài mặt tếu táo đùa giỡn như vậy nhưng
trong lòng Phong Bá rất lo cho Xi Vưu, có điều hắn biết những người khác quyết không có năng lực đối mặt với trận hồng thủy khủng khiếp nhường
này, để ngăn được thế nước, không chỉ phụ thuộc vào linh lực cao cường,
mà còn đòi hỏi lòng can đảm và quyết đoán nữa.
Mấy người đang chia nhau hành động thì cuồng phong ào ào nổi lên, cùng với nó, Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đồng loạt kéo đến.
Cộng Công chưa đến nơi đã cất giọng sang sảng như chém đinh chặt sắt: “Để ta đi dẫn nước Đan hà.” Ngoại trừ Thủy thần chuyên thao túng thủy linh, có lẽ chẳng ai dám tự phụ như thế nữa.
Hậu Thổ cười bảo Xi Vưu:
“Vũ Sư và Phong Bá đã kết bái, để y đi giúp Phong Bá đi. Ta và Chúc Dung sẽ phụ trách Thấm hà. Đề phòng Hiên Viên thừa dịp công thành, nhờ Đại
tướng quân bảo vệ Trạch Châu thành dùm cho.”
Xi Vưu thoáng ngẩn người rồi bật cười sảng khoái, chắp tay thi lễ, “Đa tạ ba vị.”
Chúc Dung ngạo nghễ ngự trên Tất Phương điểu, khinh miệt đáp: “Đừng tưởng ta giúp ngươi, ta mong cho ngươi chết cho mau còn chưa hết nữa là!”
Phong Bá cười ha hả, gọi Vũ Sư: “Đi nào!”, lời vừa ra khỏi miệng, cả hai đã
đồng thời biến mất, mọi người chỉ kịp thấy hai luồng gió vút qua mình.
Mấy trăm năm nay, Tứ đại cao thủ Thần Nông mỗi người một cõi, chẳng ai chịu ai, tranh đấu liên miên, đây là lần đầu tiên cả bốn người Xi Vưu, Chúc
Dung, Hậu Thổ, Cộng Công chung tay hợp sức để bảo vệ Trạch Châu thành.
Thấy các anh hùng dân tộc mình cùng sát cánh khảng khái chống địch, còn
gì cổ vũ được sĩ khí ba quân hơn thế nữa?
Niềm tự hào dân tộc
dần bị xói mòn từ khi Du Võng chết đi, một lần nữa lại căng đầy lồng
ngực binh lính Thần Nông, khiến toàn quân rộ lên hoan hô vang trời dậy
đất.
Toàn thân Ứng Long đầm đìa máu, chỉ biết ngẩng đầu bất lực nhìn ngọn sóng cao ngang trời chực chờ đổ xuống.
Chuyện cũ đột nhiên ùa về trong y. Giữa đầm nước lấp lánh vàng, một con quái
vật nửa rồng nửa rắn xấu xí yếu ớt cao ngạo tuyên bố với tất cả cá tôm:
sớm muộn sẽ có ngày ta biến thành một con rồng được cả Thủy tộc tôn
kính!
Tu hành cả ngàn năm, trải qua mưa dập gió vùi, sấm sét
thiêu đốt rút xương rút tủy, cuối cùng y cũng trút bỏ được nửa rắn, trở
thành một con rồng hoàn thiện.
Bao nhiêu tráng chí, mộng tưởng…
“Gừ…”
Trong tiếng gầm bi thương, Ứng Long bất lực cúi gục đầu, chỉ chờ có thế, ngọn sóng cao ngất kia lập tức ầm ầm ập xuống, chấn động cả đất trời.
Nhưng ngọn thác khổng lồ lại chẳng hề trút xuống Ứng Long, bởi một con cá
xanh khổng lồ đã chắn trước mặt y, vận linh lực chặn đứng dòng nước lũ,
phân ra làm ba phần, cho chảy về ba hướng rồi quẫy đuôi giương vây, dẫn
dắt thế nước từ từ đổ xuống.
Ầm ầm… Ầm ầm…
Con cá xanh
đỡ hộ y một đòn nặng nhất, đoạn vội vã bơi đi. Nước lũ tiếp tục trút
xuống người Ứng Long ào ào như xối, nhưng dù sao y cũng là rồng, thân
mang trọng thương nhưng thừa sức ứng phó chút nước này.
Ứng Long dùng tiếng Thủy tộc âm thầm cảm tạ nhưng con cá kia chẳng buồn để ý, nó đột ngột teo nhỏ thân mình lại chút ít, quẫy đuôi quay vòng vòng giữa
dòng như bông vụ, vừa quay vừa lao phăng phăng về phía trước, lập tức
quanh người nó hình thành xoáy nước khổng lồ, cuốn theo nước lũ xa khỏi
Trạch Châu thành.
Ứng Long yên lòng nhắm mắt, mặc cho sóng gió
cuốn mình ra đại dương. Giống cá dám vênh váo nghênh ngang cả với loài
rồng như y chắc chỉ có thần Côn Bắc Minh trong truyền thuyết. Loài cá
vạn năm khó gặp này đã xuất hiện, hẳn trận hồng thủy này sẽ bị đẩy lùi
thôi.
Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đều cố ý che giấu thân phận
nên Di Bành chẳng hề trông thấy bọn họ, chỉ thấy một con cá xanh khổng
lồ xuất hiện, trận hồng thủy sắp nhấn chìm cả Trạch Châu thành trong
chớp mắt bị ba luồng linh lực mạnh mẽ phân ra, dẫn về ba hướng rồi lần
lượt đổ vào ba con sông, tuy dọc đường đã cuốn phăng vô số ruộng nương
nhà cửa, để lại vô số cảnh tan tác tiêu điều, nhưng sau cùng cũng chỉ
như ba con rồng dữ bị thuần phục, chẳng tác oai tác quái được là bao.
Tuy hậm hực thất vọng, Di Bành vẫn ứng biến hết sức nhanh chóng, lập tức
lệnh cho Hiên Viên Hưu đem quân tiến công vào thành. Dù Thần Nông tộc
tìm được cách đẩy lui hồng thủy, nhưng toàn bộ linh lực đã dồn vào lo
cứu lụt, lực lượng phòng vệ ắt sẽ rất yếu.
Đại quân thừa nước
đục thả câu, ùn ùn tiến về phía Trạch Châu thành, đột nhiên, chúng trông thấy một gã đàn ông áo đỏ xếp bằng ngồi trên thành lâu.
“Xi Vưu, là Xi Vưu!”
Quân Hiên Viên đều biết, Xi Vưu cầm quân không khai chiến thì thôi, đã khai
chiến, hắn sẽ tàn sát chẳng còn một mống. Thậm chí, rất nhiều người đồn
đại rằng hắn thích lấy máu người nhuộm máu nên áo hắn mới đỏ rực như
vậy. Nghe tin Xi Vưu bỏ mạng, quân tướng Hiên Viên đều thở phào nhẹ
nhõm, nào ngờ hiện giờ hắn lại thình lình xuất hiện trên thành như ma
quỷ, khiến bọn chúng trố cả mắt.
Hiên Viên Hưu hốt hoảng hỏi Di Bành: “Chẳng phải hắn chết rồi ư? Sao tự dưng lại lòi ra thế? Giờ tính sao đây?”
Di Bành chắc mẩm lực lượng phòng vệ Trạch Châu hiện giờ rất mỏng nhưng
nhìn Xi Vưu ngạo nghễ trên thành, chẳng nói chẳng rằng, cười nửa miệng
nhìn xuống dưới, hắn lại phân vân do dự.
Tấn công? Hay là không?
Xi Vưu cười giễu cượt: “Các ngươi có đánh hay không nào?”
Di Bành quay sang hỏi Hiên Viên Hưu: “Chi bằng ta rút quân, lùi lại ba mươi dặm, Ngũ ca thấy sao?”
Hiên Viên Hưu tán đồng ngay: “Ta cũng nghĩ thế. Lương thảo của chúng chẳng
cầm cự được bao lâu nữa đâu, sớm muộn cũng phải đầu hàng thôi, ta khỏi
cần tốn công nhọc sức.”
Di Bành nhếch mép, âm thầm nhìn Xi Vưu cười lạnh.
Thấy quân Hiên Viên rục rịch rút lui, Xi Vưu như trút được gánh nặng. Hắn đi đứng cũng khó khăn, nói gì đến chiến đấu, nãy giờ đều là gắng gượng
đóng kịch mà thôi, chỉ cần một tên tướng lĩnh Thần tộc bình thường xông
lên cũng thừa sức hạ gục hắn rồi.
A Hành nấp trong góc khuất
quan sát, bấy giờ mới dám thở phào nhẹ nhõm. Xa xa, đồng hoang quanh
Trạch Châu thành trắng xóa nước ngập, vô số ruộng nương nhà cửa tiêu
điều tan tác. Trong chiến tranh, nhìn từ góc độ nào đó, cả hai bên tham
chiến đều thất bại.
Cộng Công dẫn binh lính quay lại đầu tiên, quả không hổ là Thủy thần, chỉ có vài thuộc hạ bị thương nhẹ.
Lát sau, Chúc Dung và Hậu Thổ lũ lượt dẫn quân trở về, sắc mặt Hậu Thổ tái
nhợt, Chúc Dung còn thảm hại hơn, tóc tai bù xù, ngọn lửa ngũ sắc thếp
vàng trên áo dính đầy bùn đất, đám thuộc hạ có hai tên bị trọng thương.
Xem ra, dù thần lực cao đến đâu chăng nữa, cũng khó mà chống chọi được
với thiên nhiên.
Ngay sau đó Phong Bá và Vũ Sư dẫn theo quân sĩ
cười cười nói nói quay trở về, cả đoàn người cạn kiệt linh lực, đi đứng
loạng choạng nhưng ai nấy đều hớn hở như mở cờ trong bụng, chẳng có vẻ
gì là vừa từ cõi chết trở về.
Hóa giải được đại nạn, tất cả đều hân hoan mừng rỡ, nói cười rộn rã.
Phong Bá ngồi phịch xuống đất, tựa vào tường, cao giọng: “Cuối cùng cũng xong. Chi bằng mọi người uống rượu ăn mừng luôn?”
…
Thoắt chốc, không khí vui mừng chợt tan biến. Tất cả đều yên lặng, chẳng nói
chẳng rằng, câu hỏi của Phong Bá rơi tõm vào thinh không.
Chúc Dung không buồn chào hỏi, cưỡi Tất Phương điểu bay mất đi.
Cộng Công định nói gì đó, nhưng chẳng biết phải nói gì, mấy trăm năm đấu đá
liên miên, tuy chưa tới nỗi không đội trời chung như Xi Vưu và Chúc
Dung, nhưng hắn và Xi Vưu cũng bằng mặt chẳng bằng lòng. Hắn đành chắp
tay xá xá Xi Vưu rồi cưỡi Tập Tập ngư đi thẳng.
Phong Bá thấy vậy đành lẩm bẩm: “Xem như ta chưa nói gì đi!”
Hậu Thổ cười với Xi Vưu, Phong Bá và Vũ Sư, khách khí cáo từ: “Quân Hiên
Viên còn quanh quẩn ngoài trướng của ta, ta cũng phải đi đây, rượu mừng
xin hẹn lần sau vậy!” Dứt lời, Hóa xà đã cõng gã bay vút đi.
Xi
Vưu nãy giờ vẫn đứng đó cười cười không nói, đột nhiên phun ra một búng
máu, ngã ngửa ra sau ngất lịm. Phong Bá hốt hoảng, cuống quýt gọi thầy
thuốc.
Thầy thuốc chẩn bệnh xong tái mặt ấp úng: “Tinh khí kiệt quệ, nguyên thần tán loạn, e rằng, e rằng… phải chuẩn bị hậu sự thôi.”
Phong Bá nghe nói sững cả người, bốn tên Si Mỵ Võng Lượng lập tức túm lấy thầy thuốc, vung tay định đánh: “Ngươi nói gì hả?”
A Hành nấp đằng sau thấy vậy liền nhào tới xem xét thân thể Xi Vưu: “Xi
Vưu đã bị trọng thương, không chịu tĩnh tâm trị liệu còn hao tổn tinh
nguyên, dùng thọ mạng hoán đổi linh lực, khiến thương thế nặng hơn, nếu
không cứu chữa kịp thời, e rằng sẽ nguy đến tính mệnh.”
Phong Bá vội hỏi: “Cách tu luyện của Xi Vưu khác hẳn bọn ta nên ta không dám
truyền bừa linh lực vào người huynh ấy, liệu có cách nào cứu được
không?”
A Hành ngẫm nghĩ một hồi, đoạn đáp: “Ngươi tin ta không? Nếu tin thì giao Xi Vưu cho ta, ta nhất định cứu được chàng.”
Phong Bá không biết A Hành là ai, nhưng nhìn lời nói, cử chỉ của Xi Vưu, hắn
cảm thấy tình nhân của Xi Vưu rất có vấn đề, bằng không Xi Vưu ngang
ngược liều lĩnh như vậy, hà cớ gì phải đau khổ nhẫn nhịn bấy nhiêu năm?
Đương lúc Phong Bá phân vân do dự, Vũ Sư nãy giờ lặng thinh bỗng khàn khàn
cất tiếng: “Xi Vưu đã chọn cô nên ta tin cô.” Thấy Vũ Sư gật đầu ra hiệu cho mình, lại nghĩ đến Xi Vưu đang cơn nguy kịch, Phong Bá đành quyết
định: “Ta tin cô.”
“Vậy giao Xi Vưu cho ta. Đợi khi chàng tỉnh
lại, linh lực sẽ còn cao hơn bây giờ nữa!” A Hành bế Xi Vưu lên, gọi A
Tệ và Tiêu Dao lại nói nhỏ: “Đến Cửu Lê.”
Hoa đào đã nở đỏ sườn núi Cửu Lê, rạng rỡ hơn nắng sớm, mỹ lệ hơn ráng chiều.
Tế đài trắng toát sừng sững giữa rừng hoa, cổ kính tang thương, nghiêm trang tịch mịch.
Dưới bóng hoa rơi rợp trời, những chiếc chuông gió quanh tế đài đinh đinh
đang đang, ngân nga reo rắt theo làn gió xuân hây hẩy, như gần như xa. A Hành bề Xi Vưu men theo thềm đá bước lên đài, rồi đặt hắn nằm xuống
chính giữa đài tế. Tiêu Dao và A Tệ đã tự động lẩn vào rừng đào, vừa
nghỉ ngơi vừa nô giỡn.
Bầu trời tối đen như mực, còn hơn ba canh giờ nữa mới tới bình minh.
A Hành nằm xuống cạnh Xi Vưu, gối lên tay hắn, âu yếm ngắm hắn thiêm
thiếp ngủ, ngón tay khe khẽ vuốt ve gương mặt hắn, đắm chìm trong mùi
đàn ông phả ra từ hắn, bao lo lắng muộn phiền dồn nén suốt một năm qua
đều tan biến cả.
Từ khi quen nhau đến giờ, bọn họ chẳng bao giờ
có dịp chuyện trò tâm sự, lúc vắng bóng thì thấy nôn nao trăm ý ngàn lời muốn tỏ bày, nhưng hễ gặp gỡ lại chẳng thốt ra được câu nào.
A Hành tựa vào lòng Xi Vưu, nhắm nghiền mắt thiếp đi.
Đằng Đông dần dần hửng sáng, vầng dương đã bắt đầu nhô lên, nỗ lực xuyên qua tầng mây dày đặc cuối trời, tỏa nắng xuống nhân gian, để vạn vật sinh
sôi nảy nở.
A Hành ngồi dậy ngước mắt chăm chú ngắm mặt trời,
như thể cảm nhận được những vật lộn và cố gắng không ngừng nghỉ của nó,
từng chút từng chút một, bể mây cuồn cuộn mịt mờ cũng bị ánh dương xuyên thấu.
Sau cùng, vầng thái dương cũng nhô hẳn lên, xua tan bóng đêm mù mịt, cả chân trời chan hòa trong ánh nắng mai.
A Hành chẳng nề lòa mắt, cứ đăm đăm nhìn thẳng vào vầng mặt trời vừa ló
xuất hiện, tay nắm chặt lấy tay Xi Vưu. Có lẽ tiếp sau bóng tối vẫn là
bóng tối, nhưng chỉ cần kiên trì vượt qua vô số bóng tối mênh mông, hẳn
sẽ thấy lóe lên một tia sáng cuối đường.
Xi Vưu từ từ mở mắt,
thấy nắng vàng ươm rực rỡ quanh mình, đẹp như gấm lụa, nhưng hết thảy
những mỹ lệ chói lòa đó đều không sánh nổi người con gái đang nắm tay
hắn, ngồi bên cạnh hắn lúc này.
Lòng Xi Vưu rộn lên vui sướng, khẽ thì thầm: “A Hành, chúng mình lại về nhà rồi.”
A Hành đặt ngón tay lên môi hắn lắc đầu, tỏ ý đừng lên tiếng. Nàng cúi
đầu lặng thinh ngắm hắn, đầu mày cuối mắt chứa chan tình ý, vấn vấn
vương vương, triền miên khắc cốt. Linh lực của A Hành mang theo năng
lượng mặt trời từ từ chảy vào thân thể Xi Vưu, khiến lục phủ ngũ tạng,
xương cốt tay chân hắn đều giãn ra khoan khoái, đôi mắt từ từ khép lại, ý thức dần chìm vào bóng đêm thăm thẳm dịu dàng, hắn thấy mình bị bao bọc trong một lớp vỏ dày thật dày, dường như đã biến thành một hạt giống
vậy, chỉ đợi gieo xuống mảnh đất màu mỡ là nảy mầm bén rễ rồi lớn lên.
Thương thế Xi Vưu dần dần ổn định, nhưng hai tay và vai A Hành lại rộp lên vì
bỏng, chỗ đỏ chỗ đen loang lổ, đau đến run bắn người lên. Nàng nén đau
bế Xi Vưu bước vào rừng đào, Tiêu Dao lập tức đậu ngay xuống trước mặt.
A Hành hỏi: “Lần này Xi Vưu bị thương rất nặng, nếu linh thể không được
bảo quản tại một nơi dồi dào linh khí như Quy khư, e rằng đã hồn phi
phách tán từ lâu. Ta nghĩ mãi, thấy nơi ấy chỉ có thể là thành địa Bắc
Minh trong truyền thuyết mà thôi, chính mày đã cứu chàng đúng không?”
Tiêu Dao ngẩng cao đầu quác lên một tiếng đầy đắc ý.
“Giữa chàng và mày, chắc chàng sẽ không nói lời cảm tạ đâu, nhưng ta vẫn phải cảm ơn mày.” A Hành giao Xi Vưu cho Tiêu Dao rồi chắp tay hành lễ với
nó, “Chàng liều mạng tới tìm ta, đã hao phí quá nhiều tinh nguyên, nếu
không lập tức điều dưỡng, chỉ e bất cứ lúc nào cũng có thể linh hủy thể
tiêu. Bây giờ thiên hạ đang chia năm xẻ bảy, cứ theo tính tình Xi Vưu,
ắt chẳng chịu ngồi yên mà dưỡng thương, nên ta đã phong bế linh thức của chàng lại, phiền mày đưa chàng đến Bắc Minh tĩnh dưỡng. Lần sau, khi
chàng tỉnh lại, thân thể sẽ khôi phục hoàn toàn, linh lực cũng tiến lên
một tầng cao mới.”
Nghe A Hành dặn dò, Tiêu Dao liền quắp Xi Vưu sải cánh bay vút về phía cuối trời. A Tệ ngẩng đầu trông theo, hú lên buồn bã.
A Hành đứng lặng dưới gốc đào hút mắt nhìn theo Tiêu Dao, mãi đến khi
bóng chim khuất giữa ngàn mây, nàng vẫn chưa thôi ngơ ngẩn trông vời.
Hồi lâu, nàng quay đầu lại, bắt gặp đôi mắt to tròn long lanh của A Tệ chăm chú nhìn mình như đang hỏi: Mùa hoa đào sang năm lại được cùng Xi Vưu
và Tiêu Dao chơi đùa chứ?
Đối diện với ánh mắt chứa chan hy vọng của A Tệ, A Hành nghe lòng xót xa khôn tả, lệ tràn khóe mắt. A Tệ nào
biết được cuộc chiến giữa Hoàng Đế và Viêm Đế đã thay đổi vận mệnh cả
đại hoang, nó càng không hiểu cái chết của Thanh Dương đã ngăn cách nàng và Xi Vưu mỗi người một bờ chiến tuyến, sông lớn có thể chèo thuyền mà
sang, núi cao có thể cưỡi chim mà lên, nhưng còn hài cốt của người thân
sao nỡ bước qua đây?
Hoa đào lả tả ngợp trời, phớt qua má nàng,
đậu lên vai nàng, chuyện xưa cũng lần lượt hiện ra rành rành trước mắt.
Ngày này năm ngoái, nàng còn hăng hái bày biện nhà cửa, dạt dào hy vọng
kề bên nhau suốt cuộc đời.
Chẳng ngờ nhà vẫn đây mà duyên đã dứt.
Từ nay về sau, mỗi mùa đào nở, họ sẽ mãi mãi không thể gặp nhau dưới cội hoa đào được nữa.
A Hành ròng ròng nước mắt, cắn ngón trỏ vạch lên thân cây một hàng chữ
bằng máu: “Giữa Thừa Ân điện tình quyến luyến, dưới cội hoa đào hẹn
thành không, ly biệt từ đây, xin đừng nhung nhớ.”