Giữa đông gào thét, tuy mùa đông ở huyện Giang nhiệt độ trung bình vẫn trên không độ C, nhưng hiển nhiên loại cây như hoa hồng ngoài tự nhiên, gần như không thể nở hoa trong điều kiện nhiệt độ như vậy.
Tuy nhiên Xuân Hòa nhìn thấy rõ ràng những bông hoa hồng dại, mặc dù không nhiều lắm, ẩn trong bụi cây, rải rác một khoảnh nhỏ.
Xuân Hòa lách qua bức tường thấp, men theo núi Văn Thanh vào trong, đi quanh một vòng, cuối cùng phát hiện chỉ một vài cây nở hoa, không rõ do nguyên nhân gì.
Xuân Hòa cũng xới đất ở gốc những cây hoa hồng đang nở, bỏ vào giấy bọc kẹo bỏ túi.
Khi xuống núi gần như không thấy ai, chỗ nào cũng là những đống đất nhỏ nổi lên, một số có bia mộ, một số chỉ là cái bàn đá để cúng mặc. Mùi hương rất nồng, có lẽ khá nhiều người đến thắp hương cúng giỗ.
Ngọn núi khá lớn, Xuân Hòa chỉ đi mòn một bên chân núi.
Trong thời gian ở bệnh viện tâm thần, Xuân Hòa và bà Đỗ trở nên thân thiết hơn nhiều, càng thân càng thấy bà ta là kiểu phụ nữ cổ điển sống vì chồng con, nếu thiếu đi những điều đó thì cuộc đời không còn ý nghĩa, loại phụ nữ “bếp núc chờ chồng”.
Vĩ đại, mà cũng tội nghiệp.
“Nếu chồng cô không chữa khỏi bệnh thì sao?” Bà ta thường ngước mặt đầy vẻ bơ vơ hỏi câu này, chẳng biết là hỏi Xuân Hòa, hay tự hỏi mình, hay chỉ là lời lẩm bẩm vô nghĩa.
“Mọi thứ rồi sẽ dần ổn thôi.” Xuân Hòa luôn an ủi bà ta như vậy, nhưng thực ra, cô Chu Chu đã từng nói thầy Hành gần được xuất viện rồi, nhưng đã lâu thế mà bệnh tình vẫn thất thường.
“Hay thử đổi loại thuốc khác xem sao?” Xuân Hòa cũng không hiểu chuyên môn y khoa, chỉ gợi ý thế thôi.
“Mới đổi sang một loại thuốc mới gần đây, thuốc nhập khẩu, rất đắt đấy.” Bà ta nói tới chữ “đắt” thì lông mày không tự chủ được nhíu lại, mặt đầy vẻ đau khổ.
Theo lời đồn đã bỏ ra không ít tiền rồi, với gia đình giáo viên tuy không đến nỗi kiệt quệ nhưng chắc chắn cũng là gánh nặng lớn.
Đôi khi Xuân Hòa ngồi hầu chuyện thầy Đỗ, những lúc não ông ta tỉnh táo, hai người tán gẫu, ông ta cũng giống như mô tả của đa số học trò và đồng nghiệp, không cười nói nhiều, không khéo trò chuyện, nói ít gọn, bàn luận việc gì hoặc im lặng, hoặc nhấn mạnh vào trọng tâm.
Nói chung là người thầy có vẻ rất nghiêm khắc.
“Nghe nói thầy Hành xưa kia là chủ nhiệm của cô Chu Chu phải không? Quả thực là duyên số!” Xuân Hòa gọt táo đưa thầy Đỗ, vừa gọt vừa hỏi một câu tầm phào.
Thầy Đỗ gật gật đầu: "Cô ấy luôn là một đứa trẻ tốt."
“Vâng, cô Chu Chu rất giỏi, em nghe nói cô ấy đi du học bằng học bổng của nhà nước.” Xuân Hòa hùa theo, rồi hỏi câu mình hằng muốn hỏi: “Thầy thấy Tri Hạ là đứa trẻ thế nào?”.
Ánh mắt thầy Đỗ dừng lại giây lát, chậm rãi quay sang Xuân Hòa, giữa ánh nhìn dần xâm chiếm nỗi đau buồn sâu thẳm, “Em ấy luôn rất cố gắng, thành tích trong lớp cũng là tốt nhất, tôi và các thầy cô khác đều cảm thấy em ấy là cây đại thụ cho Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh... nhưng... quá đáng tiếc.”
Đáng tiếc, đối với Xuân Hòa, không đơn thuần chỉ là đáng tiếc nữa rồi.
“Em ấy thế nào ở trường? Có điều gì bất thường không thưa thầy?” Xuân Hòa tiếp tục hỏi.
Thầy Đỗ hạ mí mắt xuống, có vẻ đang suy nghĩ một lát rồi ngẩng lên nói: “Em ấy là học sinh đơn thuần, bình thường ngoài việc học ra thì không có gì khác, nếu nhất thiết phải nói thì chính là Trần Hoài, học kì 1 năm nhất cả trường chưa phân ban, lúc đó do xét đến mối quan hệ tài trợ của ông Trần Hoành Chí nên đặc biệt sắp xếp cho Trần Hoài vào lớp tên ông ta, sau đó ông Trần yêu cầu không cho con trai đặc quyền nên mới chuyển cậu ấy ra. Lúc đó Trần Hoài có động tĩnh lạ với Tri Hạ, tôi gọi cậu ấy lên nói chuyện vài lần nhưng hiệu quả ra sao thì không rõ... Học trò thường ngoài mặt tỏ ra nghe lời nhưng sau lưng vẫn làm theo ý mình, chúng tôi cũng bất lực.”
Lần này Xuân Hòa im lặng, choáng váng một lúc mới gật gật đầu, “Cám ơn thầy, em biết rồi ạ.”
Ra khỏi phòng bệnh, Xuân Hòa nhắm mắt lại, cố hồi tưởng lại biểu cảm của thầy Hành.
Hơi gượng gạo, như đang diễn kịch.
Nhưng phần lớn thời gian, tình trạng tinh thần của thầy Hành không tốt lắm.
Xuân Hòa cũng không dám làm phiền nhiều, chỉ lưu ý thời gian xuất hiện của cô Chu Chu, giống như mọi khi, 12 giờ trưa xuất hiện, 1-2 giờ chiều rời đi, thời gian ngắn dài khác nhau, phần lớn ôm cái xô giữ nóng, như đang mang cơm trưa đến.
Nhưng nếu Xuân Hòa không đoán nhầm thì bên trong trống rỗng, hoặc ít nhất cũng không phải là cơm.
Không chỉ vì hôm đó cô sờ thành xô thấy trắng bụi, mà còn vì chẳng mấy chốc sau, bà Đỗ lại ra ngoài mua cơm.
Quan sát một thời gian, Xuân Hòa nói với Diêm Đông về tình hình:
“Cái chết của Tri Hạ và Triệu Ngọc Hàm, em luôn cảm thấy không đơn giản như vậy, lúc đó cô Chu Chu vẫn chưa loại bỏ nghi vấn hoàn toàn, chỉ vì có người nhận tội nên cô ấy tự động vô tội, nhưng em thấy cô ấy có nhiều điểm đáng ngờ, không chỉ việc giết người. ” Xuân Hòa không thể diễn tả được cảm giác đó, cô Chu Chu là kiểu người đầy nghi vấn nhưng lại không tìm ra sơ hở, cô chỉ có thể nói chỗ này của cô Chu Chu khả nghi, chỗ kia cũng thế, mỗi khả nghi đều có lý do để nghi ngờ, nhưng lý do ấy lại quá ép buộc, lại không ăn nhập gì.
Giống như mối quan hệ của cô Chu Chu và thầy Hành, Xuân Hòa không thể giải thích được, nếu chỉ đơn thuần là tình thầy trò, hay ân nhân và người được ân cứu, cũng không đủ để cô ta ngày ngày vất vả mang cơm đến cho ông ta dù mưa gió, thế nhưng nói là mang cơm, cái xô đựng cơm lại có vấn đề, khiến người ta nghi ngờ bên trong hoàn toàn không có cơm, vậy nếu bên trong không có cơm, cô Chu Chu mỗi ngày đến phòng bệnh để làm gì? Giải thích là thầy Hành và cô Chu Chu quả thật có quan hệ riêng tư thì trước mặt bà Đỗ như thế cũng quá lộ liễu.
Diêm Đông bụm miệng Xuân Hòa lại, mặt dán vào tai cô, nhỏ giọng cảnh báo cô: “Đừng bàn luận chuyện này ngoài đường, cũng đừng tìm cách điều tra, đây không phải chuyện em nên quan tâm.”
Tim Xuân Hòa đập thình thịch, não quay cuồng, nuốt nước bọt hỏi anh ta: “Vậy...vậy anh ở đây thực sự là để điều tra à?”.
Cô đã nghi ngờ từ lâu rồi, Diêm Đông không phải hạng người biết lười, cho dù bị ung thư giai đoạn cuối, chỉ cần bình thường hoạt động được thì anh ta hẳn là vẫn miệt mài trên tuyến đầu, phổi có vấn đề mà kiểm tra không ra lại không tin được, lại vô tình lạc đến bệnh viện tâm thần Thành Quan.
Diêm Đông không trả lời cô, chỉ nói: “Xuân Hòa, em là đứa trẻ thông minh, đừng nói gì thêm nữa cả.”
“Vâng,” Xuân Hòa gật đầu, “Anh yên tâm.”
Không hiểu sao Xuân Hòa cảm thấy yên tâm hơn phần nào, ít nhất Trình Cảnh Minh không đơn độc, cả hệ thống cảnh sát đang hoạt động, tội phạm rồi sẽ bị bắt.
Xuân Hòa không hỏi thêm, chỉ kể với Diêm Đông những gì mình biết, hai lá thư, và cái khăn choàng, “Đây là đồ Trình Cảnh Minh gửi về, cậu ấy cũng là người của anh phải không?”.
Diêm Đông không trả lời, Xuân Hòa cũng không hỏi thêm, nhiều việc hiểu ngầm rồi thì không cần nói ra.
“Em cảm thấy hai lá thư có chỗ kỳ lạ, nhưng đến giờ vẫn không thấy rõ, lá thứ nhất nhắc tới ngày 13/11 em nhớ đi bệnh viện tháo băng gạc vì đã hẹn bác sĩ, nhưng không có lịch hẹn như vậy giữa bác sĩ và em hay cậu ấy. Còn bảo nếu có việc thì báo anh, ý là em hiểu, lá thứ hai gửi tới ngày sinh nhật em, nhưng thực ra em chẳng nói với cậu ấy ngày sinh của mình, em đoán cậu ấy chỉ tìm cớ gửi quà, là cái khăn choàng, rất là dân dã, toàn hoa lớn, anh biết không, em ghét nhất kiểu này mà.”
Diêm Đông hỏi cô: “Khăn choàng kiểu gì?”.
“Ngày mai em sẽ mang đến cho anh xem.” Xuân Hòa nghĩ tiếp, “À đúng rồi, ngày 13/11 đó khi em đến bệnh viện, bác sĩ phụ trách có để lại cho em số điện thoại, em gọi đi thì Trình Cảnh Minh bắt máy, em nhận ra giọng nói của cậu ấy.”
Diêm Đông đưa Xuân Hòa tới một nơi kín đáo, hỏi: “Cậu ấy nói gì?”.
“Em không dám nói thẳng, giả vờ là nhân viên tiệm ảnh gọi chào mời, cậu ấy nói rất lạnh nhạt, em mới biết bên cạnh cậu ấy có người, hoặc điện thoại bị nghe trộm, cậu ấy ám chỉ tin tưởng phán đoán của em, nhưng em không chắc cậu ấy muốn nói gì.”
Diêm Đông an ủi cô: “Đừng lo, chuyện này sắp xong rồi, em giúp ích rất nhiều cho chúng tôi rồi, nhưng từ bây giờ không được quan tâm tới nữa, nghe chưa?”.
“Em giúp gì ạ?” Xuân Hòa thắc mắc.
“Giúp chúng tôi xác nhận phỏng đoán.”
Hôm sau Xuân Hòa mang khăn choàng đến, vừa tới cổng bệnh viện đã gặp bà Đỗ, bà ta tươi cười chào: “Xuân Hòa à, đã ăn cơm chưa?” rồi nhìn cô từ trên xuống dưới, bảo: “Hôm nay đeo khăn choàng rồi.”
Xuân Hòa "ừ" một tiếng, chợt hỏi: “Đẹp không ạ?”.
Bà Đỗ lại ngắm nghía một hồi, rồi gật gù: “Đẹp đấy, da em trắng, đeo cái này vừa thôi! Tuy nhiên... đây là hoa gì nhỉ?”.
Xuân Hòa cười gật gật, quả nhiên là sở thích của dân trung niên, cô nói: “Em cũng không biết trên đó thêu hoa gì, người khác tặng đấy ạ.”
Bà Đỗ ra vẻ suy ngẫm "ồ" một tiếng, “Ừ thôi, cô bận đây!”.
Diêm Đông thấy cái khăn và hai lá thư viết tay, có vẻ đang suy nghĩ, căn dặn Xuân Hòa: “Thời gian này ở lại đây, đừng đi đâu cả.”
Xuân Hòa vâng dạ, hỏi: “Có phát hiện gì à?”.
Diêm Đông chỉ nói: “Em khỏi lo lắng, sắp xong rồi.”
Phạm vi hoạt động hàng ngày của Diêm Đông rất hạn chế, thậm chí cả cửa phòng cũng hiếm khi ra ngoài, xa nhất là đi dạo một vòng sân trồng hoa phía dưới, trời đông giá rét, không thích hợp để đi lại, đôi khi Xuân Hòa nghĩ bức bối, với tình trạng này anh ta làm sao điều tra vụ án chứ.
Điều kỳ lạ là mỗi khi theo Diêm Đông ra ngoài, Xuân Hòa luôn cảm thấy có người đang nhìn họ, cái nhìn kiểu giám sát ấy.
Gần tới 30 tết rồi nhưng Diêm Đông vẫn im ắng không có động tĩnh gì, bệnh viện tâm thần vẫn yên ả như thường. Liệu Trình Cảnh Minh có thể quay lại?
Xuân Hòa không biết, kết quả phân tích thành phần hóa học của hoa và đất mà cô yêu cầu một cơ quan liên quan làm cuối cùng cũng xong, so sánh hoa hồng trong khu vườn nhà Chu Chu với hoa ngoài đồi, kết quả là giống nhau.
Nghĩa là hoa nhà cô Chu Chu được lấy từ đồi Văn Thanh mang về.
Cả phần báo cáo tiếng Anh, Xuân Hòa thấy những từ quen thuộc trong đống tài liệu nghiên cứu hóa học mà cô Chu Chu xem là núi, một phần trùng lặp đáng kể, hay nói cách khác, ở đó cũng có một phần phân tích thành phần hóa học của đất.
Nếu suy đoán của Xuân Hòa chẳng sai, lĩnh vực nghiên cứu của cô Chu Chu không chỉ nằm trong kỹ thuật dược học về hóa sinh, còn bao gồm chuyên ngành thực vật học, độc học và cả những kiến thức khác.
Và việc cô nghiên cứu thành phần hóa học của đất chắc chắn chỉ có một lời giải thích duy nhất, thực vật.
Hay nói cách khác, cây thuốc phiện.
Xuân Hòa không tin huyện Giang có cơ sở trồng thuốc phiện quy mô lớn, nhưng theo tài liệu video cảnh sát thành phố nhận được thì nơi này thực sự tồn tại, trước đây Xuân Hòa đã từng miệt mài nghiên cứu bản đồ huyện Giang, đánh dấu tất cả các khu vực có diện tích khá rộng mà lại vô danh, đi tận nơi xác minh xem sau, cuối cùng kết luận là điều đó hoàn toàn không thể. Chỉ còn duy nhất một lời giải thích, nơi trồng cây không hề nằm ở huyện Giang.
Tuy nhiên vẫn còn một nơi Xuân Hòa rất quen thuộc nhưng luôn bỏ qua, đó chính là núi Văn Thanh, với dân huyện Giang núi Văn Thanh chính là nghĩa trang tự nhiên, xưa kia là ngọn núi hoang, sau nhiều đời biến thành nghĩa địa, nên bao lần chính quyền định khai thác nơi này đều bị cản trở đáng kể, thêm vào địa thế và loại đất không thích hợp để khai thác và xây dựng gì có giá trị tại đây, cuối cùng không còn đụng chạm gì nữa.
Đỉnh núi Văn Thanh cao không quá 800m, bao gồm 2 dãy và 4 đỉnh, là nơi non nước hiểm trở, ngoài người đi chôn cất người thân thì hiếm ai đi vào.
Xuân Hòa nhớ hồi nhỏ từng nghe rất nhiều tin đồn, rằng trong núi Văn Thanh ma quỷ quấy phá dữ dội, có người vào thám hiểm rồi ngã khỏi vách đá xuống khe suối chết, cũng có người gặp quỷ đập tường, nửa đêm không thoát ra nổi, cuối cùng tự tông đầu vào đá mà chết, còn nhiều câu chuyện kinh dị khác nữa, người lao động dùng trí tuệ vô biên của mình, thành công biến núi Văn Thanh thành nơi bí hiểm như thiên đường của quỷ dữ và ma quỷ vậy, trẻ con nếu không cẩn thận đi lạc vào sẽ phải mời thầy pháp đuổi tà, người lớn bị ốm đau cũng đổ lỗi do bị nhập. Tóm lại vô số câu chuyện kinh dị về nơi này.
Theo thời gian, mọi người tự nhiên cảm thấy kính sợ và ghê sợ núi Văn Thanh, thường ngày ai đi ngang qua cũng tìm cách tránh xa.
Và bệnh viện tâm thần Thành Quan nằm ngay sát núi Văn Thanh và khu dân cư, thời đó mảnh đất này bỏ không, chính quyền đấu thầu nhiều lần nhưng không ai dám đầu tư phát triển, cuối cùng một thương gia người Phúc Kiến muốn mở bệnh viện tâm thần đã chọn mảnh đất rẻ tiền này, chi phí thấp, dưới 300 ngàn đã mua gần 200 mẫu đất.
Rồi mở bệnh viện tâm thần tới giờ.
Nếu ở đây trồng thuốc phiện thì khả năng bị phát hiện rất thấp, cả yếu tố xã hội lẫn tâm lý người dân, tự nhiên sẽ bỏ qua chỗ này.
Đèn nhà ai nấy sáng.
“Bảo cảnh sát điều tra bệnh viện tâm thần, núi Văn Thanh, cơ sở trồng thuốc phiện, thạc sĩ ngành hóa, mối liên hệ giữa họ.” Xuân Hòa nghĩ.
Rồi chạy nước rút lên phòng của Diêm Đông.
Cô leo cầu thang hai ba bậc một, xô cửa phòng mở toang, lời muốn nói như sắp tuôn ra vì quá phấn khích.
Nhưng trong phòng không có ai.
Xuân Hòa chưa kịp kiểm tra, đã nghe tiếng thở phía sau gáy, giật mình quay lại, cô Chu Chu đứng sau cánh cửa.
Không còn vẻ mềm mại dịu dàng như mọi khi, toàn thân toát lên sự lạnh lẽo, cô ta như đã hóa thân thành một người khác, đóng sầm cửa lại, trước khi Xuân Hòa kịp la lên, tay cô ta đã bịt miệng cô, nhanh tay khóa cổ từ phía sau.
Cô Chu Chu thì thầm bên tai cô: “Ban đầu tôi không có ý hại cô.”
Miệng Xuân Hòa như bị bịt thứ gì đó, chỉ trong vài giây ngắn ngủi đã hoàn toàn mất ý thức.