- Hay là lão phu qua đó một chiến, ngăn cách thế này không yên tâm được. Mọi chuyện đang thuận lợi thì có cơn mữa này, làm người vốn mê tin như Văn Ngạn Bác rất bất an, chuẩn bị lên cầu, với quan văn mà nói thế là đáng nể lắm rồi:
- Không cần, lệnh Khương Triết qua sông đi, cho hắn quyền tùy nghi hành sự, chẳng may không chịu nổi người Liêu tiến công thì lui về hội quân với Triệu Phu. Vân Tranh vừa nói vừa chỉ huy tham quân: - Bên bờ này chỉ cần phái binh cố thủ là được.
Có Văn Ngạn Bác cố thủ là Vân Tranh yên tâm, tiết tháo của ông ta rất đáng tin, tiếp đó tới doanh thương binh.
Bước thấp bước cao đi trên trên mặt đất lầy lội, lên một ngọn đồi, thương binh doanh đặt ở nơi cao nhất. Lều bằng vải dầu nối tiếp nhau, tiếng kêu đau đớn át cả tiếng mưa gió, đến tối vết thương thường viêm, nếu qua được cửa này thì cứu được, không thì thần tiên cũng bó tay.
Toàn thân Cát Thiên Phương bị băng kín như bánh tét, hai chân được quân y dùng giá treo lên, chỉ nhìn thấy ngón chân, hắn bị thương không nặng, nhưng độc dược rất phiền toái, vì khoét thịt nhiễm độc đi mà thành vết thương lớn.
Lúc này Cát Thiên Phương vẫn hôn mê, Vân Tranh dặn quân y: - Dùng mọi cách đi, thiếu thuốc tốt tới đại trướng lấy, chỉ cần cứu được người.
Quân y lắc đầu: - Đại soái, giờ thuốc tốt nhất cũng không cứu được hắn, độc đã vào máu, ti chức đã cho uống thuốc giải độc, giờ qua được hay không phải xem hắn. Ti chức tận lực rồi.
Vân Tranh chỉ còn biết thở dài, đội mưa đi tới lều khác.
Một quân sĩ mất cánh tay đang rên rỉ đau đớn, thấy Vân Tranh đi vào, vội ngậm miệng lại.
- Đau thì cứ kêu ra, làm sao cho dễ chịu hơn là được, ngươi bị thương do chiến đấu, không sợ mất mặt.
Quân tốt liếm môi: - Đại soái, cho thuộc hạ ngụm rượu, đau quá...
Quân y dứt khoát từ chối: - Không được uống rượu, chỉ khiến ngươi chảy máu nhiều hơn thôi.
- Chỉ một ngụm.
Hai bên đang cãi nhau thì Vân Tranh cởi bầu rượu từ hông gia tướng đưa tới: - Uống một ngụm không hề gì.
Quân tốt kệ ánh mắt hung dữ của quân y, mở nút bầu rượu tu một ngụm lớn trả lại Vân Tranh.
- Để chỗ quân y, nếu thực sự đau không chịu nổi thì uống một ngụm.
Quân y cướp ngay lấy bầu rượu đeo lên người, muốn hắn cho thương binh uống rượu thì chẳng khác nào nằm mơ. Quân tốt cũng biết vận mệnh đó, nuốt rượu xuống, cảm giác đỡ đau phần nào: - Đại soái, thuộc hạ mất tay rồi, sau khi lành sẽ phải xuất ngũ đúng không?
Vân Tranh gật đầu: - Ngươi đã hi sinh vì nước, tất nhiên xứng đáng vinh quy hồi hương, có ý định gì không?
Quân tốt khó xử nói: - Đại soái, thuộc hạ không muốn xuất ngũ, thuộc hạ là tặc phối quân, đi đâu bị người ta xem thường, cho thuộc hạ ở lại trong quân, làm hỏa đầu quân cũng được.
Vân Tranh nhìn giáp trụ bên cạnh, tên này là tiểu đội trưởng, lão binh thế này đại bộ phận theo mình từ thời đánh Thanh Đường, ưu đãi với hắn không phải không thể, nhưng ở lại quân doanh như thế, e rằng phải sống cô độc cả đời.
Giờ những người như vậy trong Kinh Tây quân rất nhiều, đám người này vì không có gia quyến, nhận được tiền là tiêu hết, nhất là tiêu ở phương diện nữ nhân, chẳng có chút tích góp nào, cho nên nếu xuất ngũ hoặc chết đối hoặc đi làm đạo tặc.
- Xem tình hình đi, nếu không có chỗ để đi thì theo ta.
Đám người Vương An Thạch xưa nay không có thiện cảm với quân nhân, ở Đại Tống, làm quân nhân thực ra chẳng khác gì làm cường đạo, một khí bị thương tật, Vương An Thạch nhất định nghiêm khắc dựa theo quân luật bắt họ xuất ngũ. Nếu chỉ một hai người ông ta có thể nể mặt Vân Tranh giữ lại, chứ nhiều hơn là đuổi đi hết, cùng lắm là cho ít phần thưởng.
Kinh Tây quân bây giờ khác xa Vũ Thắng quân trước kia, Vân Tranh không thể dùng chiến lợi phẩm lấy được thoải mái thưởng cho bộ hạ, thu mua lòng người là đại kỵ, tất cả dựa theo quân luật.
Quân tốt nghe thế thì mừng lắm, mắt sáng lên: - Tốt quá, thuộc hạ được theo đại soái là phúc tu mấy đời.
Vân Tranh cười khổ vỗ vai hắn: - Cứ dưỡng thương cho tốt đã, đi theo ta có phải phúc không khó nói lắm.
Khi rời danh thương binh thì trời đã hửng sáng, mưa vẫn không ngớt, chỉ là không có sấm sét nữa.
Dòng Dương hà đã trở nên hung tợn, nước đã dâng lên thêm một thước, chảy siết hơn nhiều, bất quá cầu được xây là để chuẩn bị cho hỏa pháo đi qua, nên vô cùng chắc chắn, công tượng và quân tốt cũng đang không ngừng đóng cọc gỗ to vào dòng nước, dùng mọi biện pháp gia cố cầu.
Phía đối diện cuộc chiến đã diễn ra suốt đêm, tín sứ liên tục chạy về báo tin.
Thấy Vân Tranh đi tới, Văn Ngạn Bác đứng gác suốt đêm, hai mắt đầy tờ máu, vội vàng chạy tới báo tin tức mới nhất: - Thế công của người Liêu không giảm mà còn không ngừng tăng cường, mưa cả đêm, cung nỏ bị ướt không bắn được nữa, may tạc đạn vẫn dùng được, nếu không chỉ còn cách xách đao đánh giáp lá cà.
- Nhân lúc cầu chưa có vấn đề vận chuyển đạn cháy qua đó, tuy thời tiết này uy lực giảm sút, nhưng vẫn đủ tạo ra vài đạo tưởng lửa cho Ngô Kiệt nghỉ ngơi một chút.
Tô Tuân vội nhận lệnh đi điều động vật tư, Văn Ngạn Bác nhìn màn mưa trắng xoa thì lo âu nói: - Cùng lắm thì rút binh sĩ về vậy, người Liêu không chỉ phản kích ở phía chính diện mà hai cánh cũng có hành động, vừa rồi Triệu Phu gửi tin về, người Liêu đã lập trận chuẩn bị tấn công, binh lực tới hai vạn. Phía Lý Đông Sở cũng đánh suốt từ đêm qua tới giờ, nhiều nơi đã giáp chiến, thiệt hại rất lớn.
- Vân hâu, chúng ta rút thôi, phải bảo toàn lực lượng, chúng ta không có Chủng Ngạc làm hậu viện nữa, cần giữa lực lượng!
Vân Tranh nghiêm khắc phủ quyết ý kiến của ông ta: - Không được, quân nhân tác chiến là phải chịu khổ, chiến tranh tàn khốc không chỉ là với kẻ địch, cũng là với bản thân, không thể cứ thấy khó mà lui, như thế không thể rèn lên tính kiên cường của đại quân, binh lực của chúng ta không thua kém quân Liêu, không cần lui.
- Ý đại soái là chiến đấu gian khổ nữa thì bọn họ vẫn phải chịu đựng? Văn Ngạn Bác cuống cả lên: - Vân hầu, đây không phải là lúc luyện quân, Nam Kinh đã ở ngay trước mắt chúng ta rồi.
Bất kể Văn Ngạn Bác nói gì Vân Tranh cũng không cho lui quân, ý chí cực kỳ kiên định, làm ông ta chỉ biết dậm chân lo lắng, tích cực chỉ huy binh tốt chi viện quân nhu, đảm bảo liên hệ hai bên.
Bờ bên kia mưa lớp đập bồm bộp lên người Ngô Kiệt, đai lưng bằng da trâu ướt sũng, hắn thắt lại lại mấy lần, chẳng bao lâu lại lỏng ra.
Từ chập tối hôm qua tới giờ quân Liêu tấn công như sóng biến, hết đợt này tới đợt khác, cái cổng thành đen ngòm kia như cửa địa ngục, giết bao nhiêu cũng có kẻ địch xông ra.
Kỵ binh quân Liêu mang theo quán tính cường đại xông thẳng vào thuẫn trận chặt chẽ, tức thì người bị hất tung, chiến mã kêu đau đớn, máu tươi nhuộm đỏ bờ sông, thời khắc đó sinh mệnh ti tiện chẳng bằng chó hoang.
Ngô Kiệt kéo trảm mã đao đi sau thuẫn trận, nhìn người Liêu nối tiếp nhau lao tới, bọn chúng cứ như đều mang quyết tâm liều mình, lao tới như thiêu thân, công sự phía trước đã bị thi thể lấp đầy, liên tục có quân Liêu phóng ngựa vọt qua cả rào thuẫn của quân Tống.
Lúc này một tên tướng Liêu tung ngựa vượt qua cự mã, trường đao chém đứt hàng rào kẽm gai, xông thẳng vào quân trận quân Tống, trường đao chém trái bổ phải, mở toang một lỗ hổng ngay chính diện.
Đàm Lượng, phó tướng của Ngô Kiệt thúc ngựa tới lấp chỗ trống, hét một tiếng chặn được thế đao sấm sét của tướng Liêu, hai ngựa giao nhau, cương đao lia ngang, cái đầu Liêu tướng bay lên, máu tuôn xối xả.
Đồng thời cơn đau ở vai trái truyền tới, nửa bên người tê liệt, hắn cũng trúng một đao của Liêu tướng, chẳng phải nhờ giáp tốt, đao này đã rạch bụng hắn.
Còn chưa kịp thở thì lại một kỵ binh lao tới, trảm mã đao nặng nề chém thẳng yếu hầu hắn.
"Choang!"
Lần nữa vũ khí chạm nhau tóe hoa lửa, đao của Liêu binh bị đẩy ra, Đàm Lượng cũng không chịu nổi lực phản chấn ngã xuống ngựa, một đao khi nãy của Liêu tướng làm hắn ít nhất gãy hai cái xương, thêm đòn mạnh này không sao trụ vững trên lưng ngựa.
Vừa xoay người thì có vó ngựa lớn dẫm xuống, chỉ cách đầu Đàm Lượng có một tấc, chậm một chút thôi là nát đầu.