Bách Yêu Phổ 2

Chương 5-3: Long Tước



Edit: Sa

Trước khi nó rời nhà đi thì được một trưởng bối thấm thía căn dặn là đi đâu cũng được nhưng đừng nên tới nhân giới vì nơi đó có rất nhiều thứ được làm bằng kim loại, với đặc thù của cơ thể chúng, nếu va chạm vào những thứ đó sẽ gặp rắc rối to.

Trong nhà đã có mấy con gặp nạn, thúc phụ của nó, thậm chí là thế hệ cha ông, sau khi rời nhà bị con người bắt được, hầu như đều trở thành những đao lưỡi kiếm lừng danh nhất, gọi là “Đại Hạ Long Tước”, uy lực vô ngần, một đao mất mạng.

Thật lạ lùng là tổ tông của chúng đều được sinh ra trong cơn gió đầu tiên nên tộc Long Tước đời đời đều có thân thể mờ mờ, không những ngự gió mà còn có thể điều khiển hướng và sức gió. Có người nói tuy chúng là yêu quái nhưng cũng là hóa thân của Thần Gió, bay lượn trời cao, ngao du sông núi.

Nhà nó ở phía sau tầng mây cao nhất và xa nhất phía tây, vị trí rất khó xác định, trước khi rời nhà nó nghĩ có khi sau này muốn về nhà nhưng lại không tìm ra vị trí cũng không chừng. Nhưng nó vẫn muốn đi, bởi vì rất vui, rốt cuộc cũng có thể trải nghiệm một cuộc sống mới. Nghe nói xa xa bên dưới tầng mây là một thế giới muôn màu muôn vẻ, vui hơn nhà nó nhiều.

Sự thật không khác với nó nghĩ lắm, nó rất thích thế giới ngập tràn cảnh sắc và trai xinh gái đẹp này, cả thức ăn của họ nữa, khác hoàn toàn với những thứ mà nó đã “ăn”. Hồi còn ở nhà, ngày nào nó cũng hít gió ăn mây, nhưng gió và mây chẳng có mùi vị gì, thứ hít vào chỉ là làn khí lành lạnh mà thôi. Nhưng nhân gian thì khác, mỗi loại thức ăn đều có mùi vị riêng, ngày nào nó cũng “ăn” được mùi vị khác nhau, vô cùng thỏa mãn.

Đồng thời nó cũng nhớ lời trưởng bối dặn, cẩn thận tránh xa hết thảy đồ được làm bằng kim loại, ngay cả cái nồi sắt cũng giữ khoảng cách.

Nhưng nó không ngờ cái số nó lại xui thế.

Có người lần mò theo dấu vết của nó. Nó biết loài người không nhìn thấy nó, nhưng kẻ này rất lợi hại, chẳng những nhìn thấy nó mà còn bắn mũi tên đi theo nó, có điều mũi tên đó được quấn bằng tờ giấy màu vàng vẽ hoa văn rất kỳ lạ. Sau này nó mới biết đó là lá bùa mà các thuật sư hay dùng.

Tốc độ của nó nhanh như gió nhưng mũi tên ấy cũng không hề chậm, đuổi theo càng lúc càng sát.

Nó rất ghét mũi tên đó, bởi vì đầu mũi tên được làm bằng đồng, nếu bị đâm trúng thì phiền lắm.

Nó chạy trốn trong một ngọn núi hẻo lánh, chạy mãi tới cánh đồng hoang nọ, vừa ngoảnh đầu lại nhìn thứ đuổi theo mình thì tông phải cành cây, tệ hơn là nó bất tỉnh.

Ký ức cuối cùng nó còn nhớ là nó rơi khỏi chạc cây, dưới gốc cây có một đứa trẻ đang nằm lim dim, bên cạnh đặt cái gùi trúc không có nắp, nó rơi vào đó.

Dĩ nhiên, điều xấu nhất là trong gùi trúc có một con dao sắt.

Sau khi tỉnh lại, nó phát hiện mình bị “dính” vào con dao. Con dao đó đã biến thành thân thể nó. Nó không thể giương cánh bay được nữa, chỉ có thể thoát khỏi con dao ở cự ly ngắn. Nếu nó không chịu ngoan ngoãn làm một con dao thì người bình thường nhìn nó vẫn sẽ thấy là một con dao, còn người tu hành thì lúc sẽ thấy một con chim đang giương cánh mờ mờ, lúc lại là con dao bình thường, hai trạng thái sẽ thay phiên không ngừng.

Nó tương đối bình tĩnh, thầm nghĩ không được lộn xộn, nếu không sẽ làm người ta sợ, cho rằng con dao là yêu quái, ném thẳng vào lò lửa là toi đời.

Trưởng bối đã nói không phải không có cách thoát khỏi, biện pháp duy nhất sau khi bị dính chặt vào thứ gì, người đầu tiên chạm vào thứ đó chết đi thì nó sẽ thoát.

Nó nghĩ bụng vậy mình chém chết kẻ đó là xong rồi. Nhưng nó không dám nói vì trưởng bối luôn dạy chúng phải sống an ổn, không được gây chuyện, không được sát sinh.

Không ngờ nó vẫn vướng phải vấn đề “giết hay không giết”.

Chủ nhân của nó, tạm thời cứ coi là chủ nhân đi, chết tiệt lại là thằng bé ngủ lim dim dưới gốc cây, thật chứ không bỏ gì vô gùi trúc, sao cứ phải bỏ con dao sắt tồi tàn vào đó làm gì?

Thằng bé chỉ mới mười tuổi, nếu không giết nó mà đợi nó chết già thì phải đợi tới mấy chục năm nữa lận! Nếu may mắn thì thằng bé sẽ gặp tai nạn mà chết sớm! Ngày nào nó những nghĩ những chuyện này.

Nhà thằng bé, cũng là nhà nó, là một ngôi nhà tồi tàn ở ngoại ô thành Lạc Dương.

Thật ra đó là một căn nhà hoang bị mấy đứa trẻ mồ côi làm nơi che mưa chắn gió.

Tổng cộng có ba đứa trẻ, chủ nhân của nó, nó nghe đám kia gọi là “A Long”, lớn hơn hai đứa kia một hai tuổi, đứa tên là Tiểu Thiên, đứa tên là Mái Ngói.

Đó là khoảng thời gian chiến tranh loạn lạc, tin tức nghe được nhiều nhất là hoàng đế của họ muốn đánh người khác hoặc người khác muốn đánh hoàng đế của họ. Đánh nhau, đánh nhau, đánh nhau, không ngừng không nghỉ.

Trẻ con có cha mẹ đã sống khó khăn, đám trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ như chúng lại càng khó sống.

A Long chín chắn hơn rất nhiều những đứa trẻ đồng trang lứa, đối với cậu, điều quan trọng nhất trên đời là hai đứa bé sống chung với cậu, sau đó là nấu ăn.

Sau mấy ngày, qua những cuộc chuyện trò của lũ trẻ, nó mới biết con dao là vật do cha của A Long để lại, vì vậy con dao trở thành vật bất ly thân của A Long. Hồi xưa sơn tặc xông vào nhà A Long, cha dùng con dao này mở một đường máu, dốc lòng bảo vệ cậu, nhưng cha mẹ lại không thể đứng dậy từ vũng máu.

Năm ấy A Long mới tám tuổi, gầy nhom như khỉ, phải dùng cả hai tay mới cầm nổi con dao.

Bây giờ đã đỡ hơn rồi, cậu chẳng những cầm con dao bằng một tay mà còn có thể dùng nó để đuổi đám lưu manh bắt nạt cậu rồi giành lại đồ ăn. Tiểu Thiên và Mái Ngói cũng được cậu cùng con dao cứu về, hai đứa nó đi trộm đồ ăn bị bắt được, ném ra đường đánh gần chết.

Những năm tháng đó, lũ trẻ giành giật sự sống hệt như chó mèo hoang.

Mỗi lần cậu đem thức ăn về, nhìn Tiểu Thiên và Mái Nói ăn ngấu nghiến, cậu rất vui vẻ, còn vui hơn cả việc mình được ăn.

Cậu rất giống người anh cả, có lẽ vì đã từng mất mát một lần nên hiện giờ mới dốc sức bảo vệ chỗ dựa mới khó khăn lắm mới kiếm được này.

Dần dần, nó không còn tính ngày A Long chết nữa, điều nó nghĩ nhiều nhất là bao giờ thì thằng bé này rửa và mài dao, hóa ra mài dao lại dễ chịu đến thế, cảm giác như toàn thân thoải mái đến không thể thoải mái hơn. Tuy bị hạn chế hành động nhưng vì con dao là vật bất ly thân của A Long nên rất tốt, không cần bước đi cũng không cần bay vẫn có thể đi đủ nơi, nghe và nhìn thấy đủ người cùng chuyện thú vị. Ừm, tạm thời cứ vậy đã.

Năm A Long mười ba tuổi, cậu bái sư.

Nguyên nhân là sư phụ uống rượu ở quán rượu, bị móc túi, A Long nhìn thấy nên đã giành lại. Nhưng sư phụ lại mắng cậu lắm chuyện, mở túi tiền ra, đổ xuống một đống đá, nói ông chỉ muốn trêu mấy tên trộm vặt ấy thôi. A Long giận, định bỏ đi nhưng bị ông gọi lại, nói thằng bé này sao nóng tính thế, chắc là dễ bị bắt nạt lắm đây.

A Long không phục, nói, tôi có dao, không sợ.

Sư phụ cười, nói vậy con có muốn theo ta học chút quyền cước không, xã hội càng ngày lúc càng loạn, chỉ dựa vào một con dao e không đủ.

Ai muốn làm đồ đệ của ông chứ, có khi còn đánh chả lại tôi, A Long quay đầu bỏ đi.

Vậy chúng ta giao đấu không?

Đấu thì đấu!

Nó lại bị A Long cầm lên.

Trong con hẻm nhỏ, sư phụ và đồ đệ tương lai đánh một trận. Hiển nhiên là A Long thua, nhưng thua không quá mất mặt vì chòm râu của sư phụ cũng bị cậu cắt phựt một nửa.

Sư phụ hơi ngạc nhiên, nói không ngờ con dùng dao nhanh thế.

Khụ khụ, không phải là A Long nhanh mà là nó giúp một tay thôi. Nó là Long Tước đó, là yêu quái kiêm Thần Gió trong truyền thuyết đó, muốn con dao trở nên như gió thì há khó khăn gì, đừng nói là râu, nếu nó muốn thì chặt đầu ông ấy dễ như trở bàn tay. Nếu không thì trước kia con người đã chẳng phong ấn họ hàng nó vào binh khí, tất cả cũng chỉ vì tốc độ nhanh như gió của loài bọn chúng mà thôi.

A Long cũng ngạc nhiên, không ngờ người gầy gòm bình thường này lại chỉ dùng hai ba chiêu đã đánh bại cậu.

Nếu ai cũng bất ngờ về nhau, vậy thì làm thầy trò thôi.

A Long có một điều kiện là muốn sư phụ nhận luôn hai tiểu huynh đệ của cậu làm đồ đệ.

Tập võ trong núi sáu năm, sư phụ đánh không lại A Long.

Tiểu Thiên và Mái Ngói cũng không còn sợ đứa lưu manh đường phố nào nữa.

Ba đứa bé, dưới sự luân phiên của tuyết mùa đông và nắng mùa hạ, dần dần trở thành những thanh niên cường tráng.

Bái biệt sư phụ, họ trở về thành Lạc Dương xa cách đã lâu.

Thời cuộc loạn lạc hơn, xem ra hoàng đế sẽ không ngồi yên trên ngai vàng được.

Ba người họ thành lập một môn phái, suy nghĩ cả một buổi tối mới quyết định đặt tên là “Đồ Quỷ Môn”. A Long nói muốn dùng con dao này chém hết ác quỷ trong thiên hạ, kể cả quỷ đội lốt người.

Hai năm đó, họ giết sơn tặc, giết cường đạo, chuyện mà quan phủ không dám quản, họ xử, người mà quan phủ không dám động, họ giết, được tiền chia làm ba phần, một phần giữ lại cho họ, một phần kính thầy, một phần chia cho người nghèo. Thanh danh hiệp khách thiếu niên nhanh chóng truyền khắp muôn nơi.

Phàm là phường ác ôn đều không thể sống dưới tay A Long, kết cục đều là một dao mất mạng, đầu lìa khỏi xác.

Nó nghĩ nếu bây giờ nó không giúp đỡ nữa thì đao pháp của A Long cũng đã đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa.

Mấy năm đó là quãng thời gian ba huynh đệ sống với nhau hạnh phúc nhất.

Tập võ trong núi, nó nhìn thấy vô số trò vui của họ, cũng nhìn thấy họ bị sư phụ phạt đứng ở suối nước, mỗi người khiêng một cái vạc to và không được lung lay; nó theo họ xuống núi nhét thư tình vào một căn nhà nọ, A Long đỏ mặt khen con gái nhà đó đẹp lắm, Mái Ngói nói đẹp chỗ nào, mặt rỗ mà đẹp gì, sau đó bị A Long đuổi đánh nói mặt đệ mới rỗ, Tiểu Thiên không hùa theo họ mà chỉ ngồi im cười, cũng không khuyên can, bởi dẫu cãi nhau to tiếng đến đâu thì đến chiều tối hoặc trời đổ mưa, họ vẫn sẽ cười đùa cùng nhau chạy về.

Cái gọi là tuổi trẻ chính là khoảng thời gian nấp một chỗ nhìn lén cô nương nhà người ta, cùng nhau nói xấu sư phụ, không có nhiều tiền nhưng vẫn rất vui vẻ đi mua sắm, dẫu mưa sa gió giật hay nắng như đổ lửa vẫn giúp đỡ lẫn nhau, không xa không rời.

Trong ba người, Mái Ngói có võ công kém nhất nhưng cũng thông minh nhất. Cậu khuyên A Long xuống núi đổi nghề đi, cứ tiếp tục thế này e sẽ nguy hiểm tới tính mạng, mấy năm qua họ cũng dành dụm được chút tiền, chi bằng đi làm ăn, gần đây cậu phát hiện làm giả châu báu được nhiều tiền lắm. Sau đó bị A Long mắng xối xả, nói nếu làm ăn thì phải làm ăn đàng hoàng, không được lừa gạt người ta. Tiểu Thiên cũng thấy không tốt, khuyên Mái Ngói bỏ ý định đó đi.

Nhưng Mái Ngói vẫn ôm khư khư suy nghĩ đó. Cậu ta có năng khiếu trong việc này, trước kia thường xuyên nghiên cứu chúng, những thứ đồ giả do cậu ta làm đều y hệt đồ thật. Nhưng chuyện này nhanh chóng bị A Long phát hiện, cậu đánh Mái Ngói một trận nhừ đòn. Trong lúc bất cẩn, vì không kịp dừng tay mà Mái Ngói ngã từ trên cao xuống, què một chân.

Sau đó, A Long rất hối hận, tìm rất nhiều đại phu chữa trị chân cho Mái Ngói nhưng đều vô ích. Ngược lại, Mái Ngói khuyên cậu đừng để bụng, là do cậu ấy làm sai, bị què cũng không sao, nếu A Long không thích thì sau này cậu ấy không làm ăn kiểu vậy nữa.

Cậu ấy càng nói vậy, A Long càng hối hận, càng cảm thấy mình quá kích động, thằng bé mà cậu thương yêu bảo bọc như em ruột lại bị chính cậu làm cho tàn tật, cậu chưa từng khóc mà khi đó cũng khổ sở lén khóc rất nhiều.

Một năm sau, cuối cùng quân đội Thạch Kính Đường cũng công phá thành Lạc Dương, hoàng đế chết.

Nước mất nhà tan, ai ai cũng lo lắng bất an, là cơ hội tốt nhất để đám kẻ thù của nhóm A Long hành động. Chúng thừa lúc hỗn loạn mà tập hợp thành một đội nhân mã lớn, thề phải san bằng Đồ Quỷ Môn, không để ai sống sót.

Mái Ngói nói chúng có chuẩn bị kỹ lưỡng, người đông thế mạnh, không nên liều mạng, chi bằng trốn đi bằng mật thất.

Tiểu Thiên cũng nghĩ vậy là tốt nhất, A Long suy nghĩ một chút rồi cũng đồng ý. Đao kiếm không có mắt, nếu đánh thật thì cậu và Tiểu Thiên còn có thể tự vệ, nhưng Mái Ngói thì rất nguy hiểm.

Vì vậy ba người thu dọn hành lý đơn giản rồi chui vào mật đạo khi kẻ địch xông tới. Mật đạo này thông ra ngoại ô sau núi, ban đầu là do Mái Ngói đề nghị đào để phòng ngừa.

Song, mới ra khỏi mật đạo thì đã bị hất đầy vôi bột, sau đó là vô số ánh đao ánh kiếm như tuyết.

Có người đã chờ trước ở cửa động, họ không chút phòng bị rơi vào lần nguy hiểm nhất trong đời.

Trong hỗn loạn, Tiểu Thiên bị trúng mấy nhát đao, A Long tuy bị vôi bột làm cay mắt nhưng đao pháp vẫn vững vàng, di chuyển nhanh như gió, vô số đầu người bị chém rớt.

Nhưng Tiểu Thiên càng lúc càng khó chống đỡ, kẻ địch quá đông, ai cũng muốn giết người đến đỏ cả mắt.

A Long cố mở một mắt, vọt tới trước mặt Tiểu Thiên, quát: “Đi mau! Đệ ở lại cũng không giúp được gì đâu! Ở chỗ cũ chờ huynh!” Dứt lời, mặc kệ Tiểu Thiên đồng ý hay không đã đẩy cậu ấy xuống sườn núi.

Dần dần, hình dáng A Long bị vây hãm trong ánh đao và máu, từ đầu đến cuối, cậu không phát ra bất kỳ âm thanh gì, dẫu trên người bị chém bao nhiêu vết đao.

Hôm ấy trời rất âm u, muốn mưa nhưng mãi vẫn không mưa, mây đen ùn ùn kéo đến.

Chỗ cũ của họ chính là căn nhà hoang mà họ từng ở. A Long nói nếu ngày nào đó họ lạc nhau thì cậu sẽ ở nhà cũ chờ hai người.

Tiểu Thiên ở nhà chờ ba ngày, A Long không tới, Mái Ngói cũng không.

Đầu óc cậu hỗn loạn, cảm thấy không thể chờ thêm được nữa.

Sáng sớm, cậu vội vã chạy ra khỏi nhà, mới ra cửa liền nhìn thấy con dao lóe sáng của A Long.

Cậu ngạc nhiên, vội vàng xông tới nhặt con dao lên, máu dính trên đó đã khô.

Cậu mừng thầm trong bụng, nếu dao ở đây, nghĩa là A Long cũng ở đây. Nhưng cậu đã phải thất vọng, không nơi nào có bóng dáng A Long.

Càng nghĩ cậu càng bất an, cầm dao chạy như điên về chỗ mà cậu và A Long đã tách ra.

Trên núi hoang, thây người ngổn ngang.

A Long ngồi ở đó, dựa lưng vào thân cây, mở mắt, người bê bết máu, bàn tay phải cứng đờ vẫn còn giữ tư thế cầm dao.

Cậu ngơ ngác đứng đó, bầu trời nghẹn mưa ba ngày cuối cùng trút nước.

Cậu cõng thi thể A Long đi, không chôn, mà thiêu rụi. Bởi vì A Long từng nói nếu một ngày nào đó chết đi, hãy thiêu hủy, sau đó rải tro trong gió, bay tới đâu cũng được, chết như vậy mới tự do tự tại. Khi đó cậu còn trêu, nói lỡ như bay vào chén cơm của người khác thì chắc người ta buồn nôn lắm.

Nhưng hôm nay, dẫu cậu có đùa giỡn quá đáng cỡ nào thì cũng không còn ai dọa đấm cậu nữa.

Không biết cô nương mặt rỗ có còn nhớ anh chàng ngốc nghếch lén nhét thư tình vào nhà mình không.

Cũng không nên tới chỗ sư phụ, người già rồi, có một số việc vĩnh viễn không biết mới là tốt nhất.

Đứng trước ngọn lửa, cậu nói với con dao của A Long: “Tuy không biết ai đem mi tới chỗ ta nhưng sau này hãy đi theo ta nhé.”

Tất nhiên nó sẽ không nói cho cậu biết là nó tự tìm đến, cũng sẽ không nói cho cậu biết A Long đã chiến đấu dũng mãnh như thế nào. Nó và A Long đã cố gắng hết sức, đáng tiếc A Long bị thương quá nặng, dẫu nó giúp A Long giết hết kẻ địch thì cũng không thể đổi được tính mạng A Long.

Nhưng nó biết điều quan trọng nhất trong lòng A Long là gì.

Trước ngọn lửa phừng phực, nó cũng như Tiểu Thiên, lẳng lặng nhìn, những đốm lửa bắn ra bốn phía, khoảng không trung sáng rực, ngọn lửa vươn lên cao, có lẽ đó là hình thù của một linh hồn lúc rời đi.

Mái Ngói biệt tăm, Tiểu Thiên tìm cậu ấy từ năm này qua năm khác nhưng cậu ấy như đã hoàn toàn biến mất, không nơi nào có dấu vết của cậu ấy.

Trừ ba người họ, không ai biết cửa ra vào mật đạo.

Có đôi khi cậu nhớ lại, sự hận thù của một người hóa ra lại lặng lẽ đến thế.

Tiểu Thiên không thích giết người, nếu tìm ai không muốn giết người nhất trên đời, hẳn là cậu.

Cậu thích nấu ăn hơn. Con dao phay trong tay cậu trở thành con dao chân chính, cậu mang theo nó đi qua mấy chục năm, từ triều đại này sang triều đại khác, ngồi trong phòng bếp ở vô số thành to thành nhỏ, từ đó lặng lẽ làm một đầu bếp bầu bạn cùng xoong nồi chén đĩa.

Rất nhiều chuyện đã được mai táng vào lúc ấy.