Kẻ Trộm Sách

Chương 30



NGƯỜI HUÝT SÁO VÀ NHỮNG CHIẾC GIÀY

Cái khuôn mẫu đó tiếp tục suốt đến cuối mùa hè và sang đến cả mùa thu. Rudy cố gắng hết sức để vượt qua những buổi gặp mặt ở Trung tâm Thiếu niên Hitler. Max thì tập hít đất và vẽ những bức tranh của anh. Liesel tìm những tờ báo và viết những từ ngữ của mình trên bức tường hầm.

Có một điều cũng đáng lưu ý là mỗi khuôn mẫu đều có ít nhất một chỗ lệch lạc nhỏ, và một ngày nào đó cái chỗ lệch lạc này sẽ lòi ra, hay rơi ra từ một trang sách này sang một trang sách khác. Trong trường hợp này, thì nhân tố chủ đạo là Rudy. Hay ít nhất, đó là Rudy và một khoảnh sân tập thể thao vừa được bón phân.

Cuối tháng Mười, mọi việc đều có vẻ bình thường. Một thằng bé hôi hám đang bước trên phố Thiên Đàng. Gia đình nó đang trông nó về đến nhà trong vài phút nữa, và nó sẽ nói dối rằng tất cả mọi người ở Trung tâm Thiếu niên Hitler đều phải luyện tập thêm ngoài sân. Cha mẹ nó thậm chí sẽ còn trông đợi ở nó vài tiếng cười. Họ đã không có được nó.

Hôm nay Rudy đã cạn kiệt tất cả những tiếng cười cũng như những lời nói dối của mình.

Vào cái ngày thứ Tư ấy, khi Liesel quan sát gần hơn, con bé có thể thấy rằng Rudy Steiner đang cởi trần. Và thằng bé đang vô cùng giận dữ.

“Có chuyện gì vậy?” con bé cất tiếng hỏi khi Rudy lê bước đi qua.

Thằng nhóc quay người lại và chìa cái áo ra. “Ngửi đi,” nó nói.

“Gì kia?”

“Cậu điếc à? Tớ bảo là ngửi đi xem nào.”

Một cách lưỡng lự, Liesel cúi ngừi xuống và ngửi thấy một luồng khí có mùi khủng khiếp bốc ra từ cái áo lúc này chỉ lại độc một màu nâu xỉn. “Lạy các đáng Jesus, Maria và Joseph! Có phải là…?”

Thằng nhóc gật đầu. “Nó có cả ở trên cằm tớ nữa. Cằm tớ! Tớ đã gặp may khi không nuốt phải nó!”

“Lạy các đấng Jesus, Maria, Joseph.”

“Sân tập ở Trung tâm Thiếu niên Hitler vừa mới được bón phân.” Nó cho cái áo của mình một sự đánh giá lạnh nhạt, đầy vẻ gớm ghiếc khinh bỉ. “Cứt bò đất, tớ cho là như thế.”

“Cái gã, tên gì ấy gì – Deustcher – có biết là dưới đất có phân bò không?”

“Hắn nói là hắn không biết. Nhưng lúc đó hắn đã toe toét cười.”

“Lạy các đấng Jesus, Maria và…”

“Cậu làm ơn đừng có nói cái câu ấy nữa được không?”

Điều mà Rudy cần vào lúc này là một chiến thắng. Nó đã thua trong lần đối đầu với Viktor Chemmel. Nó đã phải chịu đựng hết rắc rối này đến rắc rối khác ở Trung tâm Thiếu niên Hitler. Tất cả những gì nó muốn là một mẩu thành tựu nho nhỏ, và nó rất quyết tâm có được điều này.

Nó tiếp tục đi về nhà, nhưng khi nó bước đến được chỗ những bậc cấp, nó thay đổi ý định và bước chầm chậm một cách đầy chủ ý về phía đứa bé gái.

Một cách thận trọng và khẽ khàng, nó cất tiếng nói. “Cậu có biết điều gì sẽ làm tớ vui lên không?”

Liesel co rúm người lại. “Nếu cậu nghĩ là sẽ làm chuyện đó – trong tình trạng như thế này của cậu…”

Thằng bé có vẻ thất vọng ra mặt. “Không, không phải chuyện đó.” Nó thở dài rồi bước đến gần hơn. “Một điều khác kia.” Sau một khắc suy nghĩ, nó ngẩng đầu lên, chỉ một chút thôi. “Hãy nhìn tớ này. Tớ thối hoắc. Tớ thối mùi cứt bò, hay cứt chó, cậu nghĩ sao cũng được, như thường lệ, tớ đang đói meo đói mốc.”

Thằng bé ngừng lại. “Tớ cần một chiến thắng, Liesel ạ. Thật lòng đấy.”

Liesel biết điều đó.

Con bé bước đến gần hơn mặc cho cái mùi kinh khủng tỏa ra từ người thằng bạn.

Ăn trộm.

Chúng ta phải ăn trộm một thứ gì đó.

Không

Chúng phải ăn trộm lại một cái gì đó. Cái gì không quan trọng. Chỉ cần phải làm sớm thôi.

“Lần này chỉ có cậu và tớ thôi,” Rudy đề nghị. “Không có Chemmel, không có anh em nhà Schmeikl. Chỉ có cậu và tớ thôi.”

Đứa bé gái không đừng được.

Đôi tay nó ngứa ngáy, mạch nó đập nhanh hơn và đồng thời miệng nó nhoẻn thành một nụ cười. “Nghe hay đấy.”

“Vậy là xong xuôi đâu đấy rồi nhé,” và dù đã cố gắng không làm thế, thì Rudy cũng không thể giấu nổi nụ cười như được bón phân trên gương mặt nó. “Ngày mai nhé?”

Liesel gật đầu. “Ngày mai.”

Kế hoạch của hai đứa là hoàn hảo, duy chỉ có một việc:

Chúng không biết phải là bắt đầu từ đâu.

Trái cây đã cạn. Rudy nhăn mũi khinh bỉ khi nhắc đến những củ hành và khoai tây, và chúng đã đặt ra giới hạn cho mình về Otto Sturm cũng như cái nông trại nghèo nàn của thằng này. Một lần đã là vô đạo đức lắm rồi. Hai lần thì rõ ràng là một hành động khốn kiếp.

“Thế chúng ta ăn trộm ở chỗ quái nào bây giờ?” Rudy hỏi.

“Làm sao mà tớ biết được? Đây là ý tưởng của cậu kia mà, có phải không?

“Điều đó không có nghĩa là cậu không chịu động não tí nào chứ. Tớ không nghĩ được ra chỗ nào cả.”

“Cậu thì chẳng bao giờ nghĩ ra được cái gì cả…”

Chúng cứ cãi nhau như thế khi đi khắp cả thị trấn. Ra đến ngoại ô, chúng tận mắt nhìn thấy những trang trại đầu tiên, và mấy cái cây đứng đó như những bức tượng tàn úa héo hon. Những cành cây xám xịt và khi bọn nhóc nhìn lên cành, thì chẳng có gì khác ngoài cành lá xơ xác và bầu trời trống rỗng.

Rudy nhổ nước bọt.

Chúng quay về Molching, cùng nhau đưa ra những gợi ý.

“Thế còn mụ Diller thì sao?”

“Mụ ấy thì sao?”

“Có thể nếu chúng ta nói câu Heil Hitler rồi sau đó mới ăn trộm thứ gì đấy thì ta sẽ không sao cả.”

Sau khi lang thang trên phố Munich được độ một giờ đồng hồ, ánh sáng ban ngày cuối cùng cũng tàn lụi dần, và hai đứa nhóc chuẩn bị bỏ cuộc đến nơi. “Thật vớ vẩn,” Rudy nói, “và bây giờ thậm chí tờ còn đói bụng hơn bao giờ hết. Tớ chết đói đến nơi rồi, lạy Chúa.” Nó bước thêm mười một bước nữa trước khi dừng lại và nhìn về đằng sau. “Cậu làm sao thế?” bởi vì lúc này, Liesel đang đứng bất động hoàn toàn, và một khoảnh khắc của nhận thức đang mắc kẹt trên gương mặt con bé.

Tại sao con bé lại không nghĩ về điều này trước đây cơ chứ?

“Cái gì thế?” Rudy đã bắt đầu trở nên mất kiên nhẫn. “Đồ con lợn, có chuyện gì thế?”

Ngay khoảnh khắc ấy, Liesel đã được ban tặng cho một quyết định. Liệu con bé có thể thực sự làm được điều mà nó đang nghĩ không? Liệu nó có thể thực sự trả thù một con người như thế này hay không? Liệu nó có thể khinh thường một người đến độ này không?

Con bé bắt đầu đi theo hướng ngược lại. Khi Rudy đuổi kịp nó, con bé đi chậm lại một chút trong cái hy vọng vô ích muốn có được thêm một chút rõ ràng trong tâm trí mình. Rốt cuộc thì cảm giác tội lỗi đã có ở đó rồi. Đó là độ ẩm. Và hạt giống đã mọc thành một bông hoa có những cánh màu đen. Con bé cân nhắc xem nó có thể thực sự vượt qua được chuyện này hay không. Đến ngã tư đường, nó dừng lại.

“Tớ biết có một chỗ.”

Chúng băng qua con sông và đi lên ngọn đồi.

Trên phố Grande, những cánh cửa óng nước sơn phủ, và những viên gạch ngói nằm đó như tóc giả để che những cái đầu hói, được chải chuốt đến mức hoàn hảo. Tường và cửa sổ được sơn tỉa cẩn thận, và những ông khói như đang thở ra những cụm khói hình vòng tròn.

Rudy khựng lại. “Nhà của thị trưởng à?”

Liesel gật đầu, vẻ nghiêm túc. Một thoáng dừng. “Bọn họ đã ngừng thuê mẹ tớ làm việc.”

Khi bàn bạc thêm về chuyện đó, Rudy hỏi làm thế quái nào mà chúng có thể vào được bên trong, nhưng Liesel biết. “Người trong cuộc biết,” con bé trả lời. “Trong cuộc…” nhưng khi chúng có thể nhìn thấy cánh cửa sổ của thư phòng, con bé lại được chào đón với một cú sốc. Cảnh cửa sổ ấy đã khép chặt.

“Bây giờ thì sao đây?” Rudy hỏi.

Liesel từ từ xoay người lại rồi rảo bước bỏ đi thật nhanh. “Không phải hôm nay,” con bé nói. Rudy cười phá lên.

“Tớ biết ngay mà.” Nó đã đuổi kịp con bé. “Tớ biết mà. Đồ con lợn hôi hám. Cậu không thể vào được trong đó ngay cả khi cậu có chìa khóa trong tay.”

“Cậu không phiền chứ?” Con bé rảo bước nhanh hơn và dẹp những lời nói cay độc của Rudy sang một bên. “Chúng ta chỉ cần phải đợi đến đúng cơ hội.” Trong thâm tâm, con bé cố gắng rùng mình để rũ bỏ cái cảm giác vui mừng khi thấy cánh cửa sổ đã đóng. Con bé tự mắng mình. Tại sao vậy, Liesel? Nó hỏi. Tại sao mày lại phải nổi khùng lên khi bọn họ không thuê mẹ làm nữa? Tại sao mày lại không thể câm mồm được vậy? Mày biết rồi đấy, vợ của ông thị trưởng bây giờ đã hoàn toàn thay đổi, sau khi mày gáo thét vào mặt bà ta. Có thể bà ta đã đứng thẳng người lên và gượng dậy được. Có thể bà ta sẽ không bao giờ để mình phải run lẩy bẩy vì lạnh trong căn nhà đó nữa, và cái cửa sổ ấy sẽ bị đóng chặt mãi mãi…Mày đúng là đồ con lợn ngu ngốc.

Dù vậy, một tuần sau, vào chuyến ghé thăm lần thứ năm của chúng đến phần cao hơn của thị trấn Molching, thì nó đã mở.

Cánh cửa sổ để mở ấy đang hít một luồng không khí vào trong.

Đó là tất cả những gì chúng cần.

Rudy là đứa dừng lại trước. Thằng bé lấy mu bàn tay vỗ vào sườn của Liesel. “Có phải cái cửa sổ ấy không?”, thằng bé thì thầm, “nó đang mở kìa?” Sự háo hức trong giọng nói của thằng bé nhảy chồm ra từ miệng nó, như một cánh tay đặt lên vai của Liesel vậy.

“Jawohl,” con bé đáp. “Chắc chắn rồi.”

Và tim nó bắt đầu đập mới dữ dội làm sao.

Trong những lần trước, khi chúng thấy cảnh cửa sổ khép chặt, nỗi thất vọng bên ngoài của Liesel là để che giấu cho một sự nhẹ nhõm vô biên trong lòng nó. Liệu con bé sẽ có can đảm vào bên trong chứ? Và sự thật là, vì ai và vì cái gì mà con bé phải đi vào trong đó? Vì Rudy chăng? Để tìm chút thức ăn chăng?

Không, cái sự thật đáng ghê tởm là đây:

Con bé không quan tâm về thức ăn. Rudy, dù con bé có kháng cự lại cái suy nghĩ này đến mức độ nào đi nữa, vẫn là thứ yếu trong kế hoạch của nó. Cái con bé muốn chính là quyển sách Người huýt sáo. Con bé sẽ không chịu nổi việc nhận được quyển sách đó từ tay một người đàn bà già nua, cô đơn và đáng thương hại. Mặt khác, ăn trộm quyển sách ấy thì có vẻ dễ chấp nhận hơn một chút. Ăn trộm nó, theo một phương diện ý nghĩa bệnh hoạn nào đó, cũng giống như kiếm được nó vậy.

Ánh sáng đang thay đổi theo từng khối bóng râm.

Hai đứa trẻ như bị hút về phía ngôi nhà to lớn, hoàn hảo ấy. Chúng lục lọi những suy nghĩ của mình.

“Cậu có đói không?” Rudy hỏi.

Liesel đáp. “Đến chết rồi đây này.” Ý con bé muốn nói về sự đói khát với một quyển sách.

“Xem kìa – một cái đèn trên lầu vừa mới sáng lên.”

“Tớ thấy rồi.”

“Vẫn còn đói bụng chứ, Đồ con lợn?”

Chúng khẽ cười hồi hộp một lúc trước khi giải quyết xong việc ai sẽ là người đi vào và ai sẽ là người đứng xem. Là đấng nam nhi trong phu vụ này, rõ ràng Rudy cảm thấy rằng đáng lẽ nó phải là người đi vào, nhưng hiển nhiên chỉ Liesel mới biết rõ nơi này. Con bé sẽ là người đi vào trong. Con bé biết có cái gì ở phía bên kia cánh sổ.

Con bé nói ra điều đó. “Tớ phải vào thôi.”

Liesel nhắm mắt lại. Thật chặt.

Con bé buộc mình phải nhớ lại, phải mường tượng ra hình ảnh ông thị trưởng và vợ của ông ta. Con bé quan sát tình bạn được tích lũy của nó với Ilsa Hermann và đảm bảo là đã thấy được cái tình bạn ấy bị đá cho một phát, rồi sau đó bị bỏ lại bên vệ đường. Cách này đã mang lại hiệu quả. Con bé thấy ghê tởm hai người bọn họ.

Chúng kiểm tra con đường và lặng lẽ băng qua khoảng sân trước nhà.

Giờ thì chúng đang quỳ bên dưới khe cửa sổ, trên mặt đất. Tiếng của hai đứa thở như được khuếch tán ra.

“Nào,” Rudy đề nghị, “hãy đưa tớ giữ giày của cậu. Cậu sẽ đi khẽ hơn.”

Không phàn nàn lời nào, Liesel tháo những sợi dây buộc giày đen đúa và đã mòn vẹt ra rồi để đôi giày của nó xuống đất. Con bé đứng dậy, rồi Rudy nhẹ nhàng mở cánh cửa sổ ra, chỉ vừa đủ để Liesel trèo vào trong. Âm thanh của cánh cửa phòng qua đầu hai đứa như một chiếc máy bay đang chuẩn bị hạ cánh.

Liesel nâng người qua bờ tường và luồn vào bên trong một cách chật vật. Con bé nhận thấy rằng việc cởi giày ra là một ý tưởng tuyệt vời, vì nó đã đáp xuống sàn gỗ một cách nặng nề hơn là nó nghĩ. Lòng bàn chân của nó như mở rộng ra theo cái cách đau đớn đó, nâng lên đến tận mặt trong của đôi tất con bé.

Căn phòng vẫn ở đó, theo cái cách mà nó luôn như thế.

Liesel, trong cái ánh sáng lờ mờ bụi bặm, rung mình để giữ sạch cái cảm xúc hồi tưởng. Nó trườn tới trước và để cho mắt mình quen với bóng tối.

“Sao rồi?” Rudy thì thầm rõ thành từng tiếng từ phía bên ngoài, nhưng con bé đã nhoài tay ra đằng sau và đập cho nó một cái ra ý nói, Halt’s Mauli. Im lặng nào.

“Đồ ăn,” nó nhắc nhở con bé. “Hãy tìm thức ăn. Và cả thuốc lá nữa, nếu cậu có thể.”

Dù vậy, cả hai món ấy là những điều cuối cùng trong tâm trí của con bé. Con bé đã trở về ngôi nhà của mình, giữa những quyển sách đủ màu sắc và đủ hình dạng của ông thị trưởng, với những con chữ vàng và bạc của chúng. Con bé có thể ngửi thấy những trang sách. Con bé gần như có thể nhếm thấy những con chữ khi chúng chất thành đống xung quanh nó. Đôi chân đưa con bé tới chỗ bức tường bên tay phải. Con bé biết quyển sách mà nó muốn – biết vị trí chính xác – nhưng khi con bé tới được vị trí thường lệ của quyển Người huýt sáo trên kệ sách – thì nó không có ở đó. Một khe hở nhỏ đã thế chỗ cho quyển sách ấy.

Từ bên trên, con bé nghe thấy những tiếng bước chân.

“Ngọn đèn!” Rudy thì thào. Những từ ngữ được nhét qua cánh cửa sổ để mở. “Nó tắt rồi!”

“Scheisse.”

“Họ đang xuống dưới đấy.”

Sau đó là một khoảnh khắc dài tưởng chừng như vô tận, sự vĩnh cửu của quyết định chính xác đến từng giây. Đôi mắt con bé đảo khắp căn phòng, và nó có thể nhìn thấy quyển Người huýt sáo đang nằm đó một cách kiên nhẫn trên bàn của ông thị trưởng.

“Nhanh lên,” Rudy cảnh cáo nó, nhưng rất bình tĩnh và gọn gàng, Liesel bước tới, cầm quyển sách lên rồi thận trọng đi ra ngoài. Thò đầu ra trước, nó trèo qua cửa sổ, tìm cách tiếp đất bằng đôi chân của nó một lần nữa, và lại cảm thấy sự nhói đau một lần nữa, lần này là ở chỗ mắt cá chân.

“Nào,” Rudy cầu khẩn nó. “Chạy, chạy đi. Schnell!”

Khi đã qua góc đường, trên con đường dẫn xuống dòng sông và phố Munich, con bé ngừng lại để gập người xuống và hồi phục sức lực. Cơ thể nó bị gấp lại ở giữa, không khí như đã đông cứng lại một nửa trong miệng nó, và trái tim con bé rung lên trong tai nó.

Rudy cũng vậy.

Khi thằng bé nhìn qua, nó thấy quyển sách kẹp dưới tay của con bé. Nó lắp bắp nói. “Cái quyển sách quái quỷ đó…” nó vật lộn với từ ngữ, “…nghĩ là thế nào đấy?”

Giờ thì bóng tối đã thực sự bao trùm lên hai đứa. Liesel thở hổn hển, không khí trong họng con bé bắt đầu được rã đông. “Đó là tất cả những gì tớ có thể tìm thấy.”

Rủi thay, Rudy đã có thể ngửi thấy điều đó. Lời nói dối. Thằng bé nghển cổ lên rồi nó với bạn nó điều mà nó nghĩ là sự thật. “Cậu không lẻn vào để lấy trộm thức ăn, có phải không? Cậu đã có điều mà cậu muốn…”

Sau đó Liesel đứng thẳng người dậy và bị lấn át với cảm giác bệnh hoạn của một nhận thức khác.

Đôi giày.

Con bé nhìn xuống chân của Rudy, sau đó là tay thằng bé, và ở mặt đất xung quanh nó.

“Cái gì,” thằng bé hỏi. “Cái gì thế?”

“Đồ con lợn,” con bé thốt lên. “Giày tớ đâu rồi?” Mặt Rudy trắng bệch ra như tờ giấy, và điều này làm con bé không còn nghi ngờ gì nữa. “Chúng ở chỗ tòa nhà ban nãy,” con bé nói, “có phải không?”

Rudy tìm kiếm xung quanh nó một cách tuyệt vọng, miệng nó không ngừng van vỉ vô ích rằng có lẽ nó đã mang đôi giày theo cùng. Thằng bé tưởng tượng ra cảnh nó đã nhặt đôi giày lên, ước sao điều đó là sự thật – nhưng đôi giày không có ở đó. Chúng đang nằm một cách vô dụng, hay thực ra, tệ hại hơn nhiều, như để gánh hết trách nhiệm, dưới chân tường nhà số 8 phố Grande.

“Dummkopf!” Thằng bé tự mắng mình, tự giật tai mình. Nó nhìn một cách đầy xấu hổ xuống đôi tất của Liesel. “Đồ ngốc!” Thằng bé không mất quá nhiều thời gian để quyết định khắc phục sai lầm của mình. Một cách sốt sắng, nó nói, “Cậu chờ ở đây,” rồi vội vã lao về phía góc phố.

“Đừng để bị bắt đấy,” Liesel gọi với theo, nhưng thằng bé đã không nghe thấy câu nhắc của bạn mình.

Khi Rudy đã đi rồi, thời gian trôi qua thật nặng nề.

Bóng tối giờ đã thống trị hoàn toàn và Liesel chắc rằng nó sẽ phải hứng chịu một trận Watschen khi về đến nhà. “Nhanh lên nào,” con bé rên rỉ, nhưng Rudy vẫn không xuất hiện. Con bé tưởng tượng ra tiếng coi xe cảnh sát vọng đến và quấn vào nó. Đang tự thu nhặt lấy nó.

Dù vậy, vẫn chẳng có gì cả.

Chỉ khi con bé đi đến chỗ giao nhau của hai con phố trong đôi tất ướt nhẹp, bẩn thỉu của mình, thì nó mới nhìn thấy thằng bạn. Gương mặt rạng ngời chiến thắng của Rudy được giơ lên cao khi nó sải bước về phía con bé. Hàm răng của thằng nhóc nghiến thành một nụ cười, và đôi giày đang lủng lẳng trên tay nó. “Họ gần như đã giết tới rồi,” nó nói, “nhưng tớ đã làm được.” Khi cả hai đã vượt qua được chỗ con sông, thằng bé đưa cho con bé đôi giày, và con bé ném chúng xuống đât.

Ngồi dưới đất, con bé nhìn lên người bạn thân nhất của mình. “Danke,” nó nói.

Rudy cúi người. “Đó là niềm hân hạnh của tớ.” Nó cố thêm một chút. “Hẳn sẽ chẳng ích gì khi hỏi liệu tớ có được thưởng một nụ hôn vì điều này, có phải không?”

“Vì mang về cho tớ đôi giày mà chính cậu đã bỏ lại đằng sau à?”

“Thế đấy.” Thằng bé giơ tay lên rồi nói khi chúng đi tiếp, và Liesel cố gắng bỏ qua lời nó một cách có suy tính. Con bé chỉ nghe được phần cuối cùng trong câu nói của thằng bạn. “Đằng nào thì tớ cũng chẳng muốn hôn cậu – tớ sẽ không làm thế nếu hơi thở của cậu cũng có mùi như đôi giày ấy vậy.”

“Cậu làm tớ phát tởm lên rồi đây này,” nó nói với thằng bạn, và con bé hy vọng thằng này không nhìn thấy cái phần dạo đầu của một nụ cười đã thoát ra khỏi miệng nó.

Trên phố Thiên Đàng, Rudy tung hứng quyển sách. Dưới ngọn đèn đường, nó đọc nhan đề của quyển sách thành tiếng và tự hỏi xem quyển sách này nói về cái gì.

Liesel đáp lại một cách mơ màng. “Chỉ là về một tên giết người thôi.”

“Thế thôi á?”

“Còn có một viên cảnh sát cô gắng bắt được hắn ta nữa.”

Rudy trả quyển sách lại cho Liesel. “Nhân nói đến việc đó, tớ cho rằng cả hai ta sẽ gặp một chút bực mình khi ta về nhà đấy. Đặc biệt là cậu.”

“Tại sao lại là tớ?”

“Cậu biết mà – mẹ cậu ấy.”

“Bà ấy thì sao nào?” Liesel đang thực hành cái quyền lợi hiển nhiên của một con người đã từng thuộc về một gia đình. Tất cả đều ổn khi một người cằn nhằn, rên rỉ và chỉ trích những thành viên khác của gia đình mình, nhưng họ sẽ không để cho bất cứ ai khác làm điều đó. Đó là khi bạn yểm trợ gia đình mình và chứng tỏ lòng trung thành. “Có vấn đề gì với bà ấy à?”

Rudy lùi lại. “Xin lỗi, Đồ con lợn. Tớ không có ý công kích cậu.”

Thậm chí trong bóng tối, Liesel cũng có thể thấy Rudy đang lớn lên. Mặt nó đang dài ra. Mớ tóc vàng hoe của thằng bé đang tối thẫm đi dù rất khó nhận thấy, và những đặc điểm của nó dường như đang thay đổi hình dạng. Nhưng có một điều sẽ chẳng bao giờ thay đổi. Bạn không thể giận cậu bé này lâu được.

“Có ổn không nếu tối nay tớ ăn ở chỗ cậu?” thằng bé hỏi.

“Tớ ngờ là không.”

“Tớ cũng biết thế. Thật đáng xấu hổi là cậu không thể ăn sách được. Arthur Berg từng có lần nói điều gì đó đại loại như thế. Cậu có nhớ không?”

Chúng tôi hồi tưởng lại những ngày xa xưa tươi đẹp trên quãng đường còn lại, Liesel thường liếc nhìn xuống quyển Người huýt sáo, nhìn cái bìa sách màu xám và nhan đề sách được in chữ màu đen.

Trước khi đi vào nhà, Rudy ngừng lại một thoáng và nói, “Tạm biệt, Đồ con lợn.” Thằng bé bật cười. “Ngủ ngon nhé, kẻ trộm sách.”

Đó là lần đầu tiên Liesel được gán cho danh hiệu của mình, và con bé không thể giấu được một sự thực là nó rất thích biệt hiệu ấy. Như chúng ta đều đã biết, con bé đã ăn trộm những quyển sách trước đó rồi, nhưng và cuối tháng Mười năm 1941, thì việc này mới trở thành chính thức. Đêm hôm đó, Liesel Meminger đã thực sự trở thành kẻ trộm sách.