Minh Hôn Với Quỷ

Chương 3: Mười hai tân nương



Thằng Ất khó hiểu nhưng vẫn nghe lời bà, vừa định quay đi thì lại nghe tiếng bà Tâm kêu lại.

“Khoan từ từ, mày đi tìm cho bà một con gà trống tới đây, vào linh đường cầm thêm di ảnh của cậu hai nữa.”

“Cầm di ảnh của cậu hai để làm gì thế ạ?” Không phải chỉ là đi đón tân nương thôi sao?

“Mày hỏi nhiều thế làm gì, bà bảo gì thì cứ làm theo đi.” Bà Vân Tâm có chút không vui, nhăn mày nói.

Thấy thế, thằng Ất không dám hỏi lại nữa, nhanh chóng quay người đi làm theo những gì bà Tâm phân phó.

Chưa đầy hai mươi phút sau, thằng Ất đã quay trở lại, tay trái nó xách con gà trống, còn tay phải thì ôm lấy di ảnh của cậu Nghị Minh.

Phía sau nó là bốn tên thanh niên cao to vạm vỡ, đang khiêng một chiếc kiệu hoa. Nó đứng từ ngoài cửa gọi vọng vào, “Phu nhân, con da chuẩn bị xong rồi.

Cũng vừa lúc bà Vân Tâm bước ra ngoài, nhìn thấy di ảnh cùng con gà trống trên tay của thằng Ất, bà gật đầu, mở miệng nói, “Đi thôi.”

“ơ, bà không ở nhà ạ?” Nhìn thấy điệu bộ như cũng muốn đi cùng của bà Vân Tâm, thằng Ất thắc mắc.

“Để mày đi một mình bà không yên tâm, đích thân bà đi mới được.” Bà Vân Tâm vừa đi về phía trước vừa nói.

Bà Tâm đi rất nhanh, mới nhoáng cái mà thằng Ất đã không thấy bóng dáng đâu cả rồi, nó vội vàng ôm di ảnh và xách con gà chạy theo, chiếc kiệu hoa cũng được khiêng sát theo sau.

Từ nhà họ Nghị tới núi Linh cũng không xa, chỉ tầm mười phút là bọn họ đã đi tới chân núi.

Trước khi lên núi, bà Vân Tâm dừng lại, bảo thằng Ất giết con gà trống đi, lấy máu của nó đựng trong một cái ống tre treo ở bên người, sau đó bà mới bước chân lên núi.

Từ khi bước vào núi thằng Ất cảm thấy giống như có một đôi mắt đang nhìn chằm chằm vào bóng lưng mình, nó hơi lạnh gáy, có chút sợ hãi, chỉ đành đi sát gần vào người bà Tâm.

Nó xoa xoa cánh tay, run rấy nói: “Phu nhân, đúng là trời đêm trên núi lạnh thật.”

Nó đợi một lúc cũng không thấy bà Tâm nói gì, cho rằng khoảng cách xa quá bà Vân Tâm khồng nghe thấy, cho nên cũng không nói lại nữa.

Bà Vân Tâm đương nhiên nghe được lời thằng Ât nói, nhưng bà biết day đâu phải là lạnh do thời tiết, đây là do âm khí gây ra.

Trước kia khi gả vào nhà họ Nghị, bà từng nghe mẹ của Nghị Văn dặn dò rằng quá mười hai giờ đêm tuyệt đối không được bước vào ngọn núi Linh này.

Bà cũng từng thắc mắc tại sao, nhưng lúc ấy mẹ Nghị Văn chỉ lắc đầu không nói.

Mãi tới sau này khi sau bà trở thành gia chủ phụ nhân, mới tình cờ nghe được một bà vú già kể lại, ngọn núi Linh này vốn không phải tên Linh, mà là tên Thụy, nghe nói là do khi xưa hoàng thượng đi du ngoạn qua đây, quen được một vị giai nhân, sau này hai người không đến được với nhau, vì đế tưởng niệm mối tình đó, mà lấy tên của giai nhân đặt cho nơi này, Thụy, mãi tới sau này mới đổi thành Linh.

Mấy trăm năm sau, nơi này lại biến thành bãi chiến trường, người chết vô số, cho nên là một nơi có oán khí cực nhiều.

Nghe nói ngọn núi này là một nấm mồ tập thể, cứ mỗi khi có chiến trận thì xác chết đều được chất đống ở chồ này, sau đó chôn đi, nó dần dần cao lên rồi thành núi.

Chưa kể trong trấn Xuyên có rất nhiều nhà nghèo, tiền ăn còn không đủ nói gì tới tiền mua quan tài, cho nên mồi khi người thân chết, họ đều đem xác lên vứt ở ngọn núi này.

Có người bảo là trong ngọn núi này toàn là xương trắng, chỉ cần đào sâu không quá ba mét là có thể thấy được rất nhiều bộ xương, cũng bởi vì có quá nhiều người chết, cho nên âm khí nơi này rất đậm, buổi sáng đi trong rừng cũng có thể cảm thấy lạnh sống lưng chứ đừng nói tới ban đêm.

Nhớ tới câu chuyện đó, bà Vân Tâm không khỏi cau mày, nơi có nhiều oán khí cùng âm khí như vậy,

rất dễ hình thành oán linh hại người.

Rõ ràng là đường đi ngôi đền ở phía Bắc thằng Ất biết rất rõ, không chỉ rõ mà còn rất quen thuộc nữa là đằng khác, thế nhưng lần này lại đi vòng vo mãi không tới.

Nó có chút bực bội mở miệng hỏi bà Vân Tâm, “Phu nhân, có phải là chúng ta đi nhầm đường rồi không?”

Bà Vân Tâm không nói chuyện, chỉ giơ ngón trỏ lên tỏ ý bảo nó im lặng, thằng Ất thấy thế cũng không dám nói chuyện nữa.

Bà Vân Tâm nhìn một lượt khung cảnh xung quanh, sau khi chắc chắn rằng mình đã từng đi qua nơi này hai lần, bà cau mày mở miệng, “Không ổn, bị quỷ đả đường* fôi.”

*Quỷ đả đường: bị ma quỷ làm phép thôi miên cho đi lòng vòng quanh một chồ.

Thằng Ất còn chưa hiểu quỷ đả đường là cái gì, đang định mở miệng hỏi, thì lại nghe bà Vân Tâm hỏi tiếp.

“Mấy tên khiêng kiệu hoa kia mày tìm ở đâu vậy?”

“ở trong trấn đó bà.” Thằng Ất thấy khó hiểu, sao bỗng dưng bà Vân Tâm lại hỏi vậy.

Bà khồng đế ý tới nó nữa, đi tới trước mặt bốn người đang khiêng kiệu hoa, sau khi nhìn bốn người một lượt, bà mới mở miệng hỏi, “Trước kia mấy cậu làm nghề gì?”

Mấy tên khiêng kiệu hoa chần chừ, mãi một lúc sau mới cấn thận đáp, “Thưa bà, là nghề khiêng quan tài ạ!” Vừa nói vừa nhìn sắc mặt bà Vân Tâm.

Bọn họ vỗn dĩ làm người khiêng quan tài, cũng dùng cái nghề đó nuôi sống bản thân, thế nhưng mấy hồm nay lại chẳng có việc, bụng thằng nào thằng nấy đã rồng tuếch rồi, vừa hay khi nãy thấy thằng Ất tìm người khiêng kiệu hoa, cũng chỉ yêu cầu là khỏe mạnh, bọn họ cũng mới tặc lưỡi nhận vụ này, dù sao cũng chỉ là khiêng kiệu hoa, không có vấn đề gì đúng không?

Quả nhiên, sau khi nghe câu trả lời của bọn họ, gương mặt bà Vân Tâm tối sầm lại.

Thảo nào, bà còn đang cảm thấy lạ, năm tên đàn ông dương khí mạnh, lại thêm máu gà trống, vồn dĩ phải thuận lợi đi đường mới đúng, sao lại bị quỷ đả đường.

Nhưng giờ thì bà đã rõ, năm tên đàn ồng nhưng có bốn tên lại là kẻ khiêng quan tài, hằng ngày tiếp xúc với người chết, âm khí bị nhiễm còn nhiều hơn cả bà nữa, một đám âm khí đi giữa một ngọn núi toàn là quỷ thế này không bị để mắt tới mới lạ.

Bà lườm nguýt thằng Ất một cái, “Cũng chỉ tại mày, làm hỏng việc của bà.”

Thằng Ất đột nhiên bị phu nhân lườm, còn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra thì lúc này trong rừng lại truyền tới tiếng cười ‘hihihihi’, ‘hahahha’ dọa người.

Nó bị dọa tới nhảy cấng lên, vội vàng chạy về

phía bà Vân Tâm, dính sát vào người bà, còn thiếu mồi việc là ôm lấy bà nữa thôi, động tác này của nó khiến tấm di ảnh suýt nữa rơi xuống đất.

Bà Tâm thấy thế lại càng cau có hơn, “Cầm di ảnh của cậu cho cẩn thận vào, coi trừng đêm nay cậu tới tìm mày đây.”

Thằng Ất nghe thấy thế lại càng run rẩy hơn, nhưng tay cũng vội ôm chặt lấy di ảnh.

Nó quay sang nhìn bốn tên kia, thấy sắc mặt bốn tên kia vẫn bình tĩnh như cũ, hiển nhiên là đã trải qua chuyện này không ít Tân.

Nó lại nhìn sang bà Vân Tâm, ngoại trừ nhìn thấy bà cau có mặt mày thì cũng chẳng có vẻ gì là sợ hãi.

Nó lại nhìn mình, bàn tay còn đang phát run, bồng chốc cảm thấy tủi thân, tại sao cả đám lại chỉ có mình nó sợ hãi như vậy.

Bà Tâm đâu thèm để ý tới nó, bà lồi bình máu gà treo bên hông ra, chấm một ít vào tay sau đó bôi lên hai mắt, bà quay sang bảo thằng Ất, “Đi sát gần bà, nghe tiếng người kêu cũng không được quay đầu lại.”

Rồi lại quay sang bảo mâỳtên khiêng kiệu hoa, “Làm nghề khiêng quan tài chắc gặp chuyện này cũng không ít, có lẽ các cậu biết tự bảo vệ mình đi.”

Mấy tên kia còn chưa kịp gật đầu bà đã quay đầu đi về phía trước, lần này bà nhắm cả hai mắt lại, đi chậm rãi từng bước một.

Thằng Ât vội vàng đi sát theo sau.

Đối phó với quỷ đả đường, chỉ cần bôi máu gà hoặc nước mắt trâu lên mí mắt để mở mắt âm dương, sau đó nhắm mắt lại mà đi theo con đường mắt âm dương nhìn thấy, là có thể thoát khỏi. Khi gặp quỷ đả đường kỵ nhất là việc bỏ chạy, như vậy thì lại càng hỏng bét hơn.

Quả nhiên cách này có hiệu quả, chưa tới mười lãm phút bọn họ đã tới được ngôi đền kia. Khi nhìn thấy ngõi dền, bà Vân Tâm lúc này mới nở nụ cười.

Bà chỉ tay vào ngôi đền, bảo thằng Ất, “Mày dần bọn họ đi vào khiêng tân nương lên kiệu hoa rồi khiêng ra đây.”

Thằng Ất nhìn ngồi đền cũ nát tối om, có chút sợ hãi, nhưng lại khồng dám làm trái lời bà, chỉ đành dần đám người khiêng kiệu hoa kia đi vào trong.

Vào trong đền chưa đầy ba phút, nó đã hét toáng lên chạy ù ra, nó run rẩy chỉ tay vào ngôi đền: “Phu nhân, có… có…”

“Có nhìn thấy mợ hai không?”

Nó run lẩy bẩy, lắp bắp nói: “Mợ hai… Có… Có… Có tới tận 12 mợ hai…”

Bà Vân Tâm càng nghe nó nói càng rối, gì mà 12 mợ hai?

Đúng lúc này, giọng nói của mấy tên khiêng kiệu hoa từ trong ngôi đền vọng ra, “Thưa bà… Có mười hai cỗ quan tài… Có mười hai tân nương…”