Mưu Đoạt Phượng Ấn

Chương 93: Gặp nhau



Cuối tháng tư, lại một lần tổng tuyển cử trần ai lạc định, rồi sau đó chỉ qua hai tháng ngắn ngủi, lãnh cung lại có thêm hai người mới.

Chuyện như vậy thật ra không hiếm lạ, dường như sau mỗi lần tổng tuyển cử đều có chút thị phi. Chẳng qua thời gian Từ Tư Uyển vào lãnh cung không dài, trên đầu còn rất nhiều chuyện phải xử lý nên không rảnh phân tâm lo những việc này. Đến khi nàng nuôi Niệm Quân đến thời điểm nó hiểu chuyện, có thể thả lỏng, người vừa vào lãnh cung kia đã bất tri bất giác hương tiêu ngọc vẫn.

Nhưng đến giờ, nàng lại rãnh đến buồn chán, vừa vặn có thể hỏi thăm tin tức từ những người này, đỡ phải phái hoạn quan ra ngoài đi cửa sau.

Vì thế nàng bảo Hoa Thần đi hỏi các cung nhân lãnh xem hai người mới tới là ai, vào cung khi nào, tại sao lại vào đây, bây giờ thần trí còn minh mẫn không?

Hoa Thần nhận lệnh đi làm, hoạn quan chưởng sự sớm đã muốn kết giao với phế phi lạnh lùng này, thấy Hoa Thần tới liền khách sáo đón tiếp.

Hoa Thần trở về bẩm báo: "Thật ra vào lãnh cung có ba người, không phải hai. Chẳng qua vị Đỗ thiếu sử kia vốn dĩ không phải chủ tử thật sự, vào lãnh cung dùng thân phận cung nữ mà thôi. Hai vị còn lại một người là Vũ quý nhân Quách thị, nhập cung ba năm trước; người còn lại là Tình sung y Tề thị mới nhập cung năm nay. Nghe nói các nàng vì ghen ghét Liên tần được sủng ái, muốn diệt trừ, mà Tình sung y trùng hợp là nhân sĩ Vân Nam, cho nàng nàng ta nghĩ cách đem một loại nấm tên Kiến Thủ Thanh vào cung, nhờ người hạ độc vào canh."

Từ Tư Uyển híp mắt: "Nấm đó có độc?"

"Đúng vậy, nghe bảo là kịch độc, uống vào là chết." Hoa Thần gật đầu, "Nhưng Liên tần mạng lớn, chén canh kia được đưa đến lúc Liên tần không có tâm trạng ăn nên thưởng cho cung nữ, sự việc cứ như vậy mà bại lộ. Bệ hạ vốn không để bụng Vũ quý nhân và Tình sung y, ngay sáng sớm hôm sau liền hạ chỉ phế hai người vào lãnh cung, sau đó tấn phong Liên tần thành quý tần để trấn an."

"Liên quý tần." Từ Tư Uyển lẩm bẩm ba chữ này, "Người này ta có nghe nói, hình như là người của hoàng hậu, hay đối địch với Oánh tỷ tỷ."

"Vâng. Nhưng Vũ quý nhân cũng là người của hoàng hậu." Hoa Thần vừa nói vừa thêm trà cho nàng, "Thấy họ chó cắn cho như vậy, nô tỳ đúng là sảng khoái."

"Ta cũng thích xem náo nhiệt." Từ Tư Uyển khẽ cười, "Càng náo nhiệt, ta càng muốn các nàng nói cho ta nghe."

Hoa Thần sửng sốt.

Từ Tư Uyển nhấp trà nghĩ nghĩ, hỏi: "Ta nhớ phòng bếp ở lãnh cung của chúng ta ở cùng mọt viện với chỗ chuẩn bị đồ ăn cho họ đúng không?"

"Đúng vậy." Hoa Thần gật đầu, "Là một viện có trước và sau, tiền viện nhân nguyên liệu nấu ăn, hậu viện mới là thiện phòng. Thiện phòng có tổng cộng sáu gian, trong đó có ba gian là của bên chúng ta, ba gian còn lại lo liệu việc ăn uống cho phi tần và cung nữ hoạn quan lãnh cung."

"Tốt." Từ Tư Uyển nhếch môi cười, "Hai ngày tới ngươi chú ý một chút, tranh thủ lúc đi lấy đồ ăn tiếp xúc với hai vị bên đó. Những chuyện còn lại ngươi hiểu ý ta chứ?"

Hoa Thần vừa nghe liền hiểu, hành lễ: "Nô tỳ hiểu rồi, nương tử yên tâm."

Cứ thế mới qua một ngày, cơ hội đã tới.

Lãnh cung là một nơi hỗn tạp, một người bước vào nếu bị bệnh, bị điên, không có tiền, đương nhiên chỉ đành chờ chết. Nhưng hiện giờ thần trí hai vị kia đều rõ ràng, trong tay cũng dư bạc, lãnh cung làm theo quy tắc chia có các nàng vài cung nhân làm việc nặng.

Chỉ riêng Đỗ thị kia vị phân quá thấp, bên cạnh không có cung nữ để dùng, mọi việc chỉ có thể tự làm.

Hoa Thần xác định thời gian, buổi trưa lúc đi lấy đồ ăn đụng mặt cung nữ của Quách thị và Tề thị, còn cả bản thân Đỗ thị, trong đó cung nữ của Quách thị đang lý luận với người ở thiện phòng.

"Đã bỏ ra hai đồng bạc cho các ngươi đặt mua món mặn, sao chỉ có chút xíu thịt vậy hả? Ngươi định lừa gạt nương tử của bọn ta? Rõ ràng hai đồng bạc có thể mua mấy cân thịt!"

Hoạn quan chưởng thược cười nói: "Hai đồng bạc mua được mấy cân thịt là chuyện ở bên ngoài, ở cái nơi như lãnh cung này không phải thích ăn gì là có đâu!"

Trong lúc nói chuyện có tiểu hoạn quan bưng đồ ăn qua, Hoa Thần nhìn lướt, thấy trong khay có hai món xào miễn cưỡng, hẳn là kết quả Quách thị bỏ tiền ra. Hai khay còn lại thì rất tệ, đồ ăn không biết là lấy dư ở đâu, nhìn đã rất cũ, mấy cái bánh nhìn thôi cũng biết là cứng, đây chắc hẳn là cơm canh vốn dành cho phế phi lãnh cung.

Hoa Thần không nói gì, làm như không thấy, ngựa quen đường cũ tới tìm đầu bếp nấu ăn cho Từ Tư Uyển, đứng ở cửa cười nói: "Hoàng công công, ta đến lấy đồ ăn. Hôm nay gây thêm phiền phức cho ngài rồi, nương tử của chúng ta đột nhiên mới nói muốn ăn cái gì đã thanh đạm, ngài xem có thể làm thêm món rau cho bọn ta không?"

Hoàng công công nghe vậy liền hỏi: "Dưa leo được không?"

Hoa Thần cũng nghĩ nghĩ: "Nếu có măng thì làm rau trộn măng đi. Cái món chua chua ngọt ngọt lần trước ngài làm nương tử của chúng ta thích ăn lắm."

"Cái này đơn giản!" Hoàng công công hào sảng nhận lời, lập tức xoay người đi làm.

Tiểu đồ đệ giúp việc bếp núc đương nhiên cũng không nhàn rỗi, vội đi cất đồ ăn vào trong hộp đồ ăn, tổng cộng có bốn món nóng, hai nguội, một canh, hai điểm tâm, đựng đầy hai hộp.

Chờ gã xếp đồ xong, Hoàng công công cũng đã trộn rau xong. Tiểu hoạn quan thấy Hoa Thần một mình tới, thông minh nói: "Một mình tỷ tỷ e là cầm không hết, hay là để ta tiễn tỷ tỷ?"

"Không cần, ta một tay một cái xách về là được." Hoa Thần cười nói, một bên từ chối ý tốt của gã, một bên nhét cho gã một khối bạc vụn coi như cảm tạ.

Hoàng công công cũng được tiền thưởng, vui vẻ hớn hở đi lấy mấy điểm tâm mới ra lò gói vào bao đưa cho Hoa Thần: "Cô nương mấy ngươi cũng cầm ăn đi."

Hoa Thần nói cảm ơn lần nữa, nhận điểm tâm rồi xách hộp đồ ăn đi.

Còn chưa về đến chỗ của Từ Tư Uyển thì đã bị ba vị kia cản đường như dự tính.

Ngoại trừ Đỗ thị từng được phong thiếu sử còn giữ thân phận, hai người còn lại vốn là cung nữ làm việc nặng ở lãnh cung, lập tức đứng trước mặt Hoa Thần ra oai tự xưng tỷ tỷ, chỉ đồ ăn nàng đang cầm, hỏi làm sao nàng lấy được.

Trong cung chính là như vậy, dù trước đây tôn quý thế nào, vào cái nơi như lãnh cung, đầu tiên phải tính toán tới việc ăn uống. Hoa Thần không úp úp mở mở, thoải mái nói cho các nàng biết: "Nói đến cùng thì nguyên nhân vào lãnh cung của các vị nương tử không giống nhau. Nương tử của chúng ta không phạm tội, chẳng qua vì bệnh tình của thái hậu nên mới tự xin vào lãnh cung, đây là hành động tẫn hiếu, trong cung đương nhiên phải chiếu cố nàng ấy hơn. Nương tử chúng ta trước nay thích giúp đỡ người khác, các ngươi cứ trở về bẩm báo, cứ nói nếu nhị vị nương tử chịu kể cho nàng ấy nghe chuyện vui trong cung, nàng ấy cũng vui vẻ kết thiện duyên. Ta không tiện phân phó thiện phòng quá nhiều, nhưng dặn người ta làm thêm một hai món tương tự thì vẫn trong khả năng, chi phí đương nhiên do nương tử của chúng ta chịu."

Hai cung nữ nghe vậy mắt đều sáng lên, nửa là cao hứng vì chủ tử, nửa cũng vì chính mình.

Theo quy tắc trong cung, đồ ăn chủ tử ăn không hết sẽ thưởng cho hạ nhân. Từ Tư Uyển chịu ra tay giúp đỡ phi tần lãnh cung các nàng hầu hạ có đồ ăn ngon, các nàng theo đó cũng được thơm lây.

Đỗ thị thì lại hụt hẫng, nàng vốn chỉ là cung nữ được sủng hạnh tấn vị thiếu sử, không thể so với nhóm khuê tú từ tổng tuyển cử vào cung. Hiện giờ nhìn Hoa Thần, nàng ta chợt cảm thấy mấy ngày mình được sủng ái còn không tốt bằng cung nữ này.

Vì thế không chờ hai người kia, nàng tự bưng khay đồ ăn đi, chỉ để lại một câu: "Đều là phế phi lãnh cung, có gì mà ra vẻ hả? Dù sao cả dời cũng không ra ngoài được, còn phân biệt có tội hay không có tội làm gì?"

Hoa Thần không giận, mãi đến khi về bên Từ Tư Uyển, kể nàng nghe toàn bộ sự việc. Nghe xong, Từ Tư Uyển quyết định: "Sau này nếu Quách thị và Tề thị sai người tới cầu kiến, cứ nói ngày khác hãy tới. Dù ai sai người tới đây, bắt đầu từ đêm nay chuẩn bị đồ ăn ngon cho họ, bữa khuya thêm một phần điểm tâm. Còn về Đỗ thị... Nếu nàng ta còn hồ đồ, ta sẽ giúp nàng ta tỉnh ra. Ngươi đi nói với chưởng sự một tiếng, cứ nói nàng ta va chạm ta, bảo chưởng sự xem mà làm đi."

Hoa Thần lĩnh mệnh đi làm.

Thật ra Từ Tư Uyển vốn không rảnh so đo với Đỗ thị, chẳng qua gần đây tin tức thái hậu bệnh nặng ngày càng thường xuyên truyền tới, thời điểm nàng rời khỏi lãnh cung cũng sắp rồi. Một khi đã vậy, có thể hỏi thăm càng nhiều chuyện càng tốt, cho dù chỉ là việc nhỏ râu ria, nghe một chút cũng không thiệt.

Muốn thế, nghe từ miệng ba người kia là đơn giản nhất. Nhưng các nàng không đáng để nàng lấy lòng, ban ơn hoặc thị uy là được, dù gì bọn họ chắc sẽ không thể rời khỏi đây.

Đêm đó, bữa tối của Quách thị và Tề thị thịnh soạn hơn bình thường. Đỗ thị bị chưởng quản phạt quỳ cả đêm, bốn năm ngày liên tiếp không xuống giường được.

Nhờ chuyện lần này, Từ Tư Uyển muốn hỏi thăm gì cũng tiện. Nàng có thể biết phượng thể thái hậu thật sự không ổn, nhưng Tề thị mới vào cung năm nay, từ lúc vào cung chưa từng có cơ hội đi Trường Nhạc Cung vấn an nên không biết thái hậu nương nương rốt cuộc trông thế nào.

Nàng còn biết sau khi Tư Yên sinh "Tam hoàng tử", trong cung có thêm hai hoàng tử và một công chúa, trong đó Phương chiêu dung sinh Tứ hoàng tử được sủng ái nhất. Phương chiêu dung tuy không quá thông minh nhưng lại vô cùng kiều diễm. Khi nhắc tới Phương chiêu dung Quách thị nói: "Vẻ đẹp của ả như nắng hè rực rỡ vậy."

Mấy năm qua thế cục hậu cung thay đổi thế nào cũng bị nàng nắm bắt. Quách thị trước đây là quý nhân có vẻ là người thích khua môi múa mép, bao nhiêu chuyện lục đục trong cung đều được nàng ta kể vô cùng sinh động.

Cuối tháng bảy, chuông tang cuối cùng cũng vang lên, cả hoàng cung chìm trong tiếng khóc. Ngại cung quy, cho dù cung nhân không hề có tình cảm với thái hậu cũng không thể không khóc thương để biểu đạt lòng thương nhớ.

Sau khi nghe được tin, Từ Tư Uyển án binh bất động ba ngày. Sau ba ngày vẫn không thấy ý chỉ thả nàng ra khỏi lãnh cung, nàng liền biết thái hậu đã quên lời hứa năm xưa, không hề để lại di chỉ.

Chuyện này cũng không kỳ lạ, thái hậu sớm đã bị bệnh tật tra tấn đến không còn là lão nhân hiền từ.

Mà cái nàng đánh cược vốn không phải từ tâm của thái hậu. Nàng nỗ lực làm sủng phi như vậy, cuối cùng nến phải dựa vào thái hậu mới có thể rời khỏi lãnh cung thì đúng là dùng sức không đúng chỗ.

Ngày thứ tám, thất đầu đã qua. Sau giờ ngọ Từ Tư Uyển nghe nói có cung nhân ngự tiền đi về phía lãnh cung, liền nhìn Đường Du một cái.

Đường Du hiểu ý, tươi cười ngồi xổm xuống bế Niệm Quân: "Niệm Niệm, thúc thúc dẫn con ra ngoài viện chơi trốn tìm được không?"

"Được!" Niệm Quân ba tuổi hoan hô nhảy nhót.

Đường Du dẫn hài tử ra ngoài, rất nhanh Từ Tư Uyển đã nghe tiếng Niệm Quân đếm số. Nhưng nó chưa đếm đến mười, Đường Du đã ra khỏi cửa viện, tiếp đón cung nhân ngự tiền tới truyền lời.

Một lát sau, đoàn người gặp mặt ở nơi khác. Đi đầu là môn sinh đắc ý của Vương Kính Trung, hiện giờ cũng coi như là đại thái giám số một số hai trong cung, nhưng theo lời dặn của Vương Kính Trung, ở trước mặt Đường Du gã vô cùng khách khí: "Ca ca, tiểu nhân phụng chỉ tới truyền lời cho nương tử. Khi thái hậu nương nương lâm chung thái hậu đã mất khả năng nói chuyện nên không để lại di chỉ, nhưng bệ hạ nhớ thương nương nương, hiện đang nghĩ cách, chỉ là thái hậu nương nương vừa ra đi, tang kỳ này... Phải chờ thêm một thời gian."

"Nên vậy nên vậy." Đường Du đáp.

Vừa dứt lời, trong viện vang lên tiếng của nữ hài: "Đường thúc thúc! Thúc rốt cuộc trốn ở đâu vậy!"

Mọi người ở ngoài viện đều thay đổi sắc mặt.

Giọng của người nói nghe qua còn quá nhỏ tuổi, thậm chí còn nhỏ hơn cung nữ nhỏ tuổi nhất trong cung. Hoạn quan đi đầu nhíu mày, nhìn chằm chằm cánh cửa phía sau Đường Du. Gã đột nhiên phát hiện trong ba năm qua, dù là người của ngự tiền đến truyền lời cũng chưa từng đến gần cánh cửa này như vậy. Mỗi lần tới đều có người của Từ thị cản họ cách ít nhất hai mươi trượng, luôn nói Từ thị phiền lòng, không muốn gặp ai.

Bầu không khí cứng đờ một lúc lâu, người này cuối cùng cũng hoàn hồn, hỏi: "Ca ca, đây là..."

"Cái gì?" Đường Du giả ngốc.

Người nọ chỉ đành nói rõ hơn: "Ta nghe thấy... Có tiểu hài tử?"

"Tiểu hài tử nào chứ?" Đường Du bình tĩnh, ánh mắt lại lộ sự hoảng loạn hợp tình cảnh, ngay sau đó gã bước lên bắt lấy vai đối phương, ra vẻ ngăn cản đối phương bước thêm một bước, "Ngươi nghe lầm rồi. Đi thôi, ca mời ngươi uống ly trà, lần trước bệ hạ có thưởng Long Tỉnh, không dễ có được đâu."

Hoạn quan kia cứng họng. Gã cảm thấy mình vừa phát hiện một bí mật động trời, nhưng dù cho hắn thêm tám lá gan, gã cũng không dám xông vào lục soát viện của Từ nương tử.

Từ nương tử không phải người gã có thể trêu chọc. Nếu kinh động tiểu công chúa, gã càng không thể gánh vác.

Ngay cả trà Long Tỉnh ngon nhất hoạn quan kia cũng không biết có vị gì, chờ uống xong ly trà, gã vội vàng dẫn người rời đi. Dọc đường gã cẩn thận dặn dò đám người đi theo không được nhiều chuyện, về ngự tiền cũng chỉ dám cẩn thận mời Vương Kính Trung ra, bẩm báo lại mọi chuyện.

Vương Kính Trung vừa nghe xong, sắc mặt lập tức thay đổi: "Cái gì?"

Lời đồ đệ nói khiến da đầu gã tê rần.

...

Sau giờ ngọ, hoàng hậu gọi hoàng trưởng tử tới hỏi công khóa của hắn.

Hiện giờ hoàng trưởng tử đã mười bảy tuổi, anh tuấn phong độ, mặt mày càng ngày càng giống phụ thân hắn.

Hoàng tử ở tuổi này vốn đã có thể đại hôn, sau đó dọn ra khỏi cung tự lập phủ. Nhưng đến giờ hoàng đế chưa hạ chỉ nghĩa là có ý muốn lập trữ.

Mấy năm nay hoàng hậu xuân phong đắc ý, hiện tại thái hậu cũng đi rồi, người làm con dâu như nàng ta bớt đi một chuyện phiền lòng, khí sắc cũng tốt lên rất nhiều.

Vì thế hỏi công khóa xong, nàng ta ôn hòa dặn dò nhi tử: "Hoàng tổ mẫu của con vừa ly thế, gần đây con làm việc cẩn thận một chút, đừng gây ra chuyện không hợp phép tắc để người ta bắt được thóp."

Ngụ ý là tất cả chuyện không nên làm trong tang kỳ thì chạm vào cũng không được.

Nguyên Giác kính cẩn gật đầu: "Nhi tử hiểu."

Đúng lúc này, Thính Cầm hoảng loạn chạy vào điện.

Hoàng hậu sinh nghi, nụ cười từ ái trên mặt vẫn không đổi: "Con về đi. Buổi tối còn phải túc trực bên linh cữu của hoàng tổ mẫu, ban ngày nghỉ ngơi nhiều một chút."

"Nhi thần cáo lui." Nguyên Giác hành lễ rồi rời khỏi thẩm điện.

Thính Cầm im lặng đứng bên cửa, chờ hắn đi xa mới tiến lên: "Nương nương, nô tỳ nghe nói... Bệ hạ đang tới lãnh cung."

Hoàng hậu giật mình: "Cái gì?"

Thính Cầm run rẩy: "Ba vị lần trước... Hẳn là không đáng, bệ hạ như vậy không lẽ... Không lẽ..."

Chỉ có thể là vì Từ thị.

Hoàng hậu sợ hãi, sợ Từ thị thật sự có thể ra ngoài.

Nhưng nàng ta lập tức đè nén nỗi bất an này xuống.

Triều đại chưa từng có tiền lệ phế phi lãnh cung được sách phong lần nữa, dù Từ thị vào lãnh cung vì lý do gì, đời này cũng không thể ra ngoài.

Cho dù hoàng đế mê luyến Từ thị nhưng còn cả văn võ triều thần nhìn chằm chằm, trong chuyện này hắn không thể muốn làm gì thì làm.

Nàng ta là hoàng hậu, nàng ta biết rõ tất cả quy tắc của hậu cung và triều đình, cho nên bản thân rất có tự tin ngăn cản việc hoang đường này.

Huống chi, trong tay nàng ta còn nhược điểm của Từ thị: Xuất thân của Từ thị không sạch sẽ. Đam Mỹ H Văn

Làm dưỡng nữ của nhà quan không phải không được, vào cung dự tuyển cũng có tiền lệ, nhưng dự tuyển với thân phận dưỡng nữ lại không báo, còn tự xưng "đích nữ", đây là trọng tội khi quân.

Năm xưa vì Từ thị đã vào lãnh cung, chuyện đó mới không giải quyết được. Lúc này nếu hoàng đế dám đón Từ thị ra ngoài, có đào ba thước tấc nàng ta cũng phải đào cho ra chân tướng, khiến Từ thị rời khỏi lãnh cung thế nào thì sẽ trở về thế đó.

Và nếu liên lụy đến cả Từ gia, vậy thì xin lỗi.

Nàng ta biết Từ gia nhiều đời đều là trung lương, nhưng nuôi ra một nữ nhi mê hoặc quân tâm như vậy, cũng không thể trách nàng ta không lưu tình.

Tóm lại, Từ thị đừng hòng Đông sơn tái khởi.

...

Lãnh cung.

Thiên tử đột nhiên giá lâm khiến cả đám cung nhân ở ven đường đều quỳ xuống không dám hé răng. Quách thị và Tề thị nghe được tin, mặc kệ đang bị giam giữ cũng xông ra ngoài nhưng lập tức bị bọn thị vệ ngăn cản, chỉ còn lại tiếng ai oán quanh quẩn từ xa.

Tề Hiên đi rất nhanh, nóng lòng muốn biết được đáp án, cũng nóng lòng muốn gặp lại người hắn nhung nhớ ba năm. Vương Kính Trung biết tâm tư hắn, không dám quấy rầy, mắt thấy cửa viện của Từ thị ở ngay trước mắt liền cùng các cung nhân dừng bước, để một mình hắn tiến lên.

Nhưng một hàng cung nhân lại thấy hoàng đế vừa đến gần cửa viện lại bỗng nhiên dừng chân.

Hắn vốn đã giơ tay, nhưng đột nhiên sợ hãi. Hắn không biết bản thân đang khiếp đảm điều gì, qua một lúc lâu vẫn cẩn thận bước lên, nhìn qua khe cửa.

Chỉ nhìn một cái, hắn liền nhìn thấy bóng hình xinh đẹp đang ngồi dưới hành lang. Nàng không khác gì trong trí nhớ, chẳng qua lúc này nàng mặc một bộ bạch y, thoạt nhìn càng thanh nhã hào phóng hơn.

Khoảnh khắc đó, tim hắn đập rất nhanh.

Từ Tư Uyển biết rõ mọi chuyện đang xảy ra bên ngoài.

Lúc này ánh nắng sáng ngời, nàng ngồi dưới hành lang tuy không thể nhìn thấy ngoài khe cửa có gì nhưng vẫn có thể mơ hồ thấy khe cửa đang bị ai đó che mắt. Không cần nghĩ nhiều cũng biết bên ngoài hoặc là cung nhân ngự tiền được hắn phái tới tìm hiểu thật giả hoặc là bản thân hắn không kìm được nỗi lòng.

Nàng không cần sợ hoàng hậu nghe được tin tới tìm trước, bởi vì nếu chút chuyện này cung nhân ngự tiền cũng không biết nặng nhẹ thì sớm đã bị kéo ra ngoài đánh chết.

Nàng để người bên ngoài nhìn một lúc, nhẹ giọng gọi Hoa Thần tới, hỏi: "Tiền giấy hôm nay đã chuẩn bị chưa?"

"Nương nương yên tâm, mỗi ngày đều chuẩn bị theo lệnh của nương tử, không ngày nào dám quên. Có điều bây giờ đã qua thất đầu, nô tỳ thấy hay là nương tử nghỉ ngơi chút đi, cứ ban ngày chép kinh khẩn cầu, buổi tối lại đốt vàng mã, quá mệt rồi."

"Hôm nay ta sẽ nghỉ ngơi vậy." Từ Tư Uyển mỉm cười, "Đêm nay đốt vàng mã, ngươi đưa Niệm Niệm đi cùng đi."

Hoa Thần sửng sốt: "Nương tử?"

Từ Tư Uyển thở dài: "Lãnh cung vốn là nơi nhiều âm khí, nó nhỏ tuổi, còn là nữ hài, ta không dám để nó tiếp xúc với mấy thứ này trong thất đầu tiên. Nhưng hôm nay đã qua thất đầu, âm khí cũng tiêu tan một chút, nó là cháu gái của thái hậu cũng nên tẫn hiếu. Đêm nay ngươi đưa nó đi đốt vàng mã, nói với nó là đốt cho nãi nãi, có điều nhớ chú ý lửa, đừng để nó bị thương."

"Vâng." Hoa Thần hành lễ, "Vậy nô tỳ chuẩn bị thêm chút tiền giấy."

"Được." Từ Tư Uyển gật đầu, phất tay, để lộ Phật châu dưới ống tay áo.

Nàng xoay Phật châu đọc hai câu kinh, Niệm Quân được Đường Du xúi giục từ trong phòng chạy ra. Nó quay đầu nhìn nhìn Đường Du rồi chạy tới ôm đầu gối của Từ Tư Uyển, ngửa đầu hỏi: "Đường thúc thúc nói tâm trạng nương không tốt, Niệm Niệm tới dỗ nương!"

Từ Tư Uyển bật cười: "Vậy Niệm Niệm đọc thơ cho nương nghe đi."

"..." Niệm Niệm bị làm khó.

Từ lúc nó hai tuổi, người trong viện mỗi khi rảnh rỗi đều đọc thơ cho Niệm Niệm nghe, nhưng tiểu hài tử còn nhớ như vậy, ghi nhớ không phải chuyện dễ, lại bị Từ Tư Uyển hỏi bất chợt như vậy, nó càng không trả lời được.

Nghẹn nửa ngày, Niệm Quân chỉ đọc được mấy chữ "Xuân hiểu", "Đêm lặng tư".

"Niệm Niệm giỏi quá." Từ Tư Uyển bế nó lên, ôm vào lòng, dựa vào trụ hành lang, nhắm mắt: "Nương muốn ngủ một lát, Niệm Niệm ở với nương được không?"

"À!" Niệm Quân rầu rĩ trả lời.

Nó không thích ngồi yên một chỗ, nhưng cảm giác cảm xúc mẫu thân hôm nay hơi khác thường cho nên im lặng ở bên nàng.

Từ Tư Uyển nhắm mắt giả ngủ, không đợi quá lâu đã nghe động tĩnh rất nhỏ từ cửa viện.

Niệm Quân ở trong lòng lập tức giãy giụa: "Nương, có người tới rồi!"

Từ Tư Uyển làm như không nghe thấy, vẫn nhắm mắt.

Niệm Quân lại gọi: "Nương, có người! Có người kia!"

Từ Tư Uyển nhíu mày, buông tay: "Đi chơi đi."

Niệm Quân từ trên đùi nàng trượt xuống, chạy lên mấy bước, lại cảnh giác dừng lại, tò mò nhìn người tới.

Tề Hiên nhìn nữ hài tử trước mặt, đột nhiên có cảm giác đã qua mấy đời, cơ thể thoáng lảo đảo.

Hắn hít thở sâu, cố bình tĩnh đi đến trước mặt Niệm Quân, ngồi xổm xuống, nhìn hài tử chằm chằm.

Niệm Quân cũng chớp mắt nhìn hắn, nhìn nhau mấy giây, hắn cuối cùng cũng lên tiếng, giọng nói rất nhỏ như sợ dọa hài tử, càng như sợ kinh động mẫu thân đang ngủ say phía sau: "Gọi phụ hoàng."

Niệm Quân rụt cổ, nghiêm túc trả lời: "Không gọi!"

Tề Hiên ngẩn ra, không hề tức giận, chỉ cười hỏi: "Tại sao vậy?"

"Nương nói chỉ có cha mới gọi là phụ hoàng!"