Thương Tiến Tửu

Chương 205: Đoan châu



Thích Trúc Âm gửi tấu cho Khuất đô, đến tận tháng Hai mới có hồi âm. Nàng xem tin trong phủ ở quận Thương, nói với Thích Thời Vũ đang nằm trên giường: “Con bảo đánh bộ Thanh Thử, bộ Binh không đồng ý, Thái hậu lo quân phí nên bảo con chờ một thời gian nữa. Nhưng hiện giờ Trung Bác đã khai chiến rồi, con mà còn chờ tiếp thì bỏ lỡ thời cơ mất.”

Dạo này Thích Thời Vũ đã khá hơn, nằm trên giường hơi cà lăm, lúc nói chuyện phải cầm khăn tay, cất tiếng: “Con, con vội.”

Thích Trúc Âm bóp méo ý ông, đặt lá thư xuống, đáp: “Đúng thế, con vội, sao con có thể không vội cho được? Tính kỹ mà xem, Ly Bắc thua không hề có lợi gì cho Khải Đông.”

Lúc bấy giờ Thích Thời Vũ mới nói hết câu: “Vội… vội cái gì!”

Thích Trúc Âm dựa lưng vào ghế, nghe tiếng di nương khóc lóc ỉ ôi trong viện. Tối qua nàng phi ngựa nguyên nửa đêm mới tới nơi, ngồi ở đây chống đỡ tinh thần bằng trà đặc, lát còn phải chạy về nữa, vừa nghe tiếng khóc là đã thấy phiền, bèn bảo Thích Thời Vũ: “Cha bảo dì im miệng đi có được không?”

Di nương bên trong đình viện đã sinh con trai cho Thích Thời Vũ, bây giờ đang khóc sướt mướt như hoa lê trong mưa, dựa vào thị nữ sụt sà sụt sịt kêu với vào phòng: “Lão gia… Ta gặp lão gia một chút thôi cũng không được sao? Sao đại soái ác thế!”

Thích Vĩ đứng dưới hiên, nhìn bà vợ lẽ kia khóc sưng đỏ cả mắt, sắp sửa trượt xuống đất đến nơi rồi. Hắn chậc một tiếng khẽ, xê chân quay mặt vào tường, nghe nhức cả đầu.

Thích Thời Vũ nghe ra được là bà nào, trước khi bị đột quỵ vì trúng gió, ông ta biết thương hương tiếc ngọc vô cùng, bây giờ lại siết chặt chiếc khăn tay, lồng ngực phập phồng dữ dội, gồng sức quát: “Bảo, bảo ngươi im, im miệng!” Dứt lời thở hồng hộc một lúc, lấy khăn che khóe miệng rồi quay qua Thích Trúc Âm, “Ly Bắc, Bắc không…”

“Đấy là chuyện từ bao nhiêu năm trước rồi,” Thích Trúc Âm ngắt lời ông, “cha cũng đã bằng này tuổi rồi, vẫn còn giận dỗi lão vương gia sao? Các chủ tướng ở chiến doanh Ly Bắc đều là người có bản lĩnh, đã sớm không còn là bộ dạng mười mấy năm trước nữa rồi.”

“Tiêu Ký Minh kia, còn, còn cả Tiêu Trì Dã nữa…” Mỗi một câu của Thích Thời Vũ đều mất sức, chính ông ta nghe mà còn phải nhăn mặt, “Có thể đánh nổi A, A Mộc Nhĩ ư? Giờ con mà xuất binh thu dọn loạn cục cho người ta, trong lòng Thái hậu sẽ, sẽ sinh hiềm nghi, sau khi đánh xong, xem Khuất đô truy, truy cứu thế nào!”

Mấy chục năm trước, Thích Thời Vũ là tình lang trong mộng của các cô nương Đại Chu, xuất thân hiển hách, vẻ ngoài anh tuấn. Trong tứ đại danh tướng thời Vĩnh Nghi, ông ở Khải Đông thành danh sớm nhất, Phùng Nhất Thánh từng là tướng lĩnh dưới trướng ông, vốn ban đầu còn có triển vọng phong vương, ngờ đâu Tiêu Phương Húc bỗng dưng quật khởi ở ải Lạc Hà, thiết kỵ Ly Bắc đè bẹp uy danh của quân phòng vệ Khải Đông, đè luôn cả một đời của Thích Thời Vũ.

Hai người bọn họ không có thù, mà là thích so tài, ẩu đả với nhau ở Khuất đô. Thích Thời Vũ coi thường xuất thân của Tiêu Phương Húc, Tiêu Phương Húc khích Thích Thời Vũ là cái gối thêu hoa. Hồi còn tại, Phùng Nhất Thánh lớn tuổi nhất trong bọn họ, mang theo Lục Bình Yên xuất lực không ít mới khiến Khải Đông và Ly Bắc làm anh em nhiều năm đến vậy được.

Thích Thời Vũ đánh liều thử, thế nào lại đoán được mình không có con trai trưởng, hồi đầu cũng có suy nghĩ gả Thích Trúc Âm cho Tiêu Ký Minh, nhưng tự trong lòng ông thấy lấn cấn nên cuối cùng vẫn không mở miệng.

“Truy cứu cái gì?” Thích Trúc Âm tháo đao, “Nếu không còn Ly Bắc, thì sẽ không còn Trung Bác; nếu không còn Trung Bác, thành Đan cũng sẽ mất. Thái hậu truy cứu ai? Chính bà ta à? Tiêu Ký Minh với Tiêu Trì Dã dẫu gì cũng là con trai của lão vương gia, chỉ dựa vào bản lĩnh của Hàn Thừa, đến lúc đó ngăn nổi kỵ binh Biên Sa chắc? Có mà tất cả coi như nước mất nhà tan.”

Thích Thời Vũ bị nàng làm cho sặc hụt hơi luôn.

Thích Trúc Âm tiện tay rót chén trà, nói: “Cha nghỉ một lát đi.”

“Không!” Thích Thời Vũ cố chấp, ném cái khăn vào người Thích Trúc Âm như một đứa trẻ con, “Đồ nữ tử ngu ngốc nhà ngươi! Mặc, mặc cả với Thái hậu, kiểu gì cũng phải, phải có một cái tước vị mới, mới được đi!”

Thích Trúc Âm lặng đi giây lát, biết Thích Thời Vũ đây là thương nàng. Nàng đã giữ chức đại soái binh mã năm quận Khải Đông nhiều năm rồi, thế mà vẫn không có một cái tước vị trên thân, sau này bị thương bị phế, Khuất đô chỉ cần một điều lệnh là có thể gạt nàng đi.

“Dầu gì sinh, sinh có danh, chết…” giọng Thích Thời Vũ run run, “chết có vị!”

Nếu không trăm năm sau này, Thích Trúc Âm nàng sẽ chỉ là “con gái Thích gia”, bất luận chiến công của nàng có lừng lẫy đến đâu, cũng sẽ chẳng để lại một chính danh.

Thích Trúc Âm nắm chén trà, nhìn hoa văn bên trên, nói: “Chỉ biết vì nước vong thân sa trường, cần chi trở về da ngựa bọc thây [1]. Nếu con mà chết trận thật thì cha ở nhà khắc tên con lên, cũng thế cả.” Nàng ngẩng mặt, nhoẻn cười với Thích Thời Vũ, “Khải Đông chúng ta bị người ta quản, cái gì cũng phải nói với Khuất đô. Thái hậu đã chịu cho quân lương thì con cũng chẳng cần danh tước gì đâu, thế thôi.”

Chẳng biết có phải vì già rồi hay không, Thích Thời Vũ bỗng trào nước mắt, cũng không để cho Thích Trúc Âm lau hộ mình, chỉ cúi mặt nghẹn ngào: “Nếu con mà là con trai…”

Thích Trúc Âm gấp chiếc khăn lại đặt trên mép giường. Đợi Thích Thời Vũ bình tĩnh lại mới nói tiếp: “Bao nhiêu anh em đi trước đã hy sinh, ai cũng có thể lưu danh sử sách hay sao? Phùng tướng quân cũng không phong tước. Con nói chuyện này với cha, là muốn cha hiểu, năm nay thật sự phải đánh giặc. Đầu năm nghe nói Trần Trân ngã bệnh, lần này bộ Binh không đồng ý cho con xuất binh, cũng là vì lực của ông ta không đủ, đến lúc ông ta đi xuống thì chúng ta cũng hết người ở Khuất đô, con sợ quân lương sẽ lại càng khó lấy. Chi tiêu trong phủ, bớt được khoản nào thì hãy bớt khoản ấy, cha đừng để lời bên gối thổi lung tung nữa, mấy di nương kia muốn thôn trang có thôn trang, muốn cửa hàng có cửa hàng, dù con có chết, các dì với đám con trai của cha cũng không chết đói được đâu.”

Thích Thời Vũ cả giận: “Thôn trang ta cho con đều, đều…”

“Đều đem đi cầm cả rồi,” Thích Trúc Âm suy nghĩ một lát mới trấn an, “cơ mà vẫn còn giữ lại một mẫu ba phân đất mẹ con dùng trồng hoa hòe cây cỏ, không nỡ bán, sau này vẫn đủ sống qua ngày.”

Di nương bên ngoài phòng đã im lặng, buổi chiều trời âm u, mây dày phủ kín không trung, trong phòng lại buông rèm, càng tăm tối. Thích Thời Vũ nằm trên giường nhìn con gái, bờ vai gầy đằm trong ánh sáng từ ngoài cửa sổ, trên mái tóc cài trâm của người vợ quá cố.

Thích Trúc Âm giống mẹ, những khi khí thế không lấn át mặt mày, cười lên lại có chút dễ thương, đại soái không anh khí như trong lời người ta hay đồn.

Thích Trúc Âm chờ Thích Thời Vũ ngủ rồi mới đi ra, nàng đổi giày dưới hiên, ủng da hươu giẫm xuống tuyết, hỏi Thích Vĩ: “Người đâu rồi?”

“Đại phu nhân mời đi rồi.” Thích Vĩ nói ở phía sau.

Thích Trúc Âm quay về vẫn không thấy Hoa Hương Y đâu, ngần ngừ một lát, lúc đi ngang qua viện của Hoa Hương Y nghe được giọng nói thanh thoát như tiếng chim hót. Cách lớp cửa động, nàng trông thấy Hoa Hương Y từ nhành mai.

Hôm nay Hoa Hương Y mặc áo lông cáo, nhìn chất liệu thì hẳn là mang tới từ Khuất đô, trắng không tạp sắc, lông tơ diềm quanh gò má, càng làm cho đôi mắt trong như nước thu thêm tươi sáng. Nàng đang nhìn chính là người con gái được yêu chiều nâng niu, ngón tay điểm lên cành mai trắng nõn nà, đời này chưa từng dính qua một hạt bụi.

Thích Trúc Âm bỗng sao nghiêng đầu, nhìn hồi lâu.

“Kế toán trong phủ đã chuẩn bị xong sổ sách rồi, đang chờ người trong phòng làm việc đấy. Chi tiêu trong phủ chúng ta năm ngoái…” Thích Vĩ nói một tràng dài, ngẩng mặt thấy Thích Trúc Âm không động đậy thì nhìn sang.

Thích Trúc Âm nâng Tru Cưu lên, dùng vỏ đao chặn ánh mắt của Thích Vĩ lại.

Hoa Hương Y ở đằng kia đang ngắt một cành mai, giữa chân mày điểm hoa điền (*) tựa cánh hoa, nghe thị nữ đi theo ghé vào tai thì thầm gì đó thì cười lên, nghiêng mình góp chuyện.

(*Là cái hình giữa trán. Mọi người hay gọi là chu sa nhưng chu sa chỉ là tên của một loại đá có màu đỏ thôi chứ không phải là tên của cái này.)

Thích Trúc Âm không quay lại, miệng bảo Thích Vĩ: “Đi.”

Thích Vĩ chẳng nhìn thấy gì, lặp lại: “Đi?”

Thích Trúc Âm nhấc chân đi thẳng, vị hòa thượng cao hai trượng Thích Vĩ chẳng hiểu mô tê gì, mà cũng không dám hỏi, cun cút đi theo. Thích Trúc Âm đi thẳng tới phòng làm việc, đối chiếu sổ sách với kế toán. Nàng không có thời gian ngồi xuống, cứ thế đứng lật giấy.

“Nhà đổi người quản sự rồi à?” Thích Trúc Âm đột nhiên hỏi.

Kế toán khom mình, nhỏ giọng đáp: “Thưa đại soái, không đổi ạ.”

“Lạ nhỉ,” Thích Trúc Âm lật mấy tờ nữa, “tiền nong mấy năm trước rối tinh rối mù lắm mà, chỉ thiếu nước hỏng bét nhè nữa thôi, sao năm vừa rồi lại rành rọt thế?”

Chỗ sổ sách này đâu chỉ có rành rọt, đến cả các khoản dự chi năm nay cũng được soạn riêng ra một quyển, chi tiêu của các phòng trong phủ được liệt kê ra rất rõ ràng. Đồ trang điểm của các di nương theo yêu cầu của Thích Trúc Âm cắt đi một nửa, những thôn trang lằng nhằng của Thích Thời Vũ cũng được ghi trong đó, còn đâu ra đấy hơn cả sổ sách của bộ Hộ.

“Trước đây các khoản mục trong phủ chúng ta rối rắm, mỗi phòng một kiểu, các tiên sinh cũng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu.” Kế toán nhận chén trà, bưng tới cho Thích Trúc Âm, “Lần trước đại soái muốn phủ phải tiết kiệm, nhưng thôn trang bên dưới lại coi như không biết, cống vật hàng tháng cộng thêm chi phí hậu cần loạn nùi vào nhau.”

Thích Trúc Âm ngước mắt lên nhìn kế toán.

“Lần này là do đại phu nhân tính,” kế toán sợ Thích Trúc Âm mất vui, bèn vội vàng nói ngay, “đại phu nhân cai quản hậu viện, phải xem xét các khoản mục trong các phòng, đặc biệt phái người đến bảo chúng ta rằng sổ sách này loạn quá, vì chi tiêu quân lương trước nhất của người, phải làm lại từ đầu. Bọn tôi bèn mau chóng chỉnh lý lại mấy lần, nhưng không chịu nổi các phòng gây khó dễ, rất nhiều viện giấu thôn trang, không chịu khai thật…”

Đúng là có chuyện đó thật.

Các di nương ai cũng sợ Thích Thời Vũ về chầu trời, đã giữ khư khư thôn trang trong tay, lại còn ra sức vơ vét của trong phủ, mỗi lần tính sổ là lại bắt đầu nói phét như sáo. Thích Trúc Âm không ở hậu viện, những tâm phúc như Thích Vĩ đều là nam nhân bên ngoài, không tiện nhúng tay vào, cho nên sổ sách lúc nào cũng lộn xộn, nàng hễ nghĩ đến là đau đầu.

Hoa Tam này có chút bản lĩnh đấy chứ nhỉ.

Thích Trúc Âm cầm sổ, hỏi: “Các dì nghe lời nàng thế sao?”

“Hồi đầu không nể mặt đại phu nhân đâu ạ,” kế toán đáp, “đều là người đã sinh con trai nên cậy lão gia thương, đã không giao sổ sách ra còn đòi vào viện lão gia làm ầm lên. Chẳng phải đại soái đưa cô nương Hồng Anh cho đại phu nhân dùng đấy sao? Đại phu nhân mới bảo cô nương Hồng Anh mời di nương khóc bất tỉnh về lại viện, gọi đại phu đến xem, đại phu không nhìn ra bệnh, đại phu nhân bèn đem di nương ra sân chôn.”

Thích Trúc Âm không phản ứng kịp, nàng sững sờ chốc lát mới hỏi: “Đem ra sân chôn?”

“Đem ra sân chôn!” Kế toán nói, “Thế là thôi xong, các di nương khóc như được mùa, bảo muốn tố cáo với đại soái.”

“Ô,” Thích Trúc Âm nói, “tố cáo với ta á?”

“Thế là đại phu nhân đưa ngựa, mở cửa cho các bà đi.”

Các di nương xưa nay đến cả mặc quần áo cũng còn cần người hầu hạ, nào có ai biết cưỡi ngựa? Thích Thời Vũ không quản cái đấy! Trời rét độ này, ai mà dám đến viện Thích Thời Vũ khóc lóc, Hoa Hương Y chôn luôn người đó ở viện của mình như trồng củ cải, chẳng được bao lâu các di nương đã rét ngất.

Các cô cô bên người Hoa Hương Y đều là những tay lão luyện Thái hậu đãi cát sàn vàng mới tuyển ra, chúng di nương mà dám la lối ăn vạ nữa, các nàng lại đổi ngay sang những mánh răn đe tàn nhẫn khác. Chúng di nương quỳ ở hành lang lập thành quy củ, đến cả mặt của Hoa Hương Y còn không thấy. Chờ đến lúc chúng di nương nước mắt nước mũi dầm dề về lại viện của mình rồi thì đến lượt đám con.

“Là ca nhi* đúng không,” Hoa Hương Y ngồi đằng sau bình phong, giọng ôn hòa, “nghe nói mấy hôm trước nợ mấy trăm lượng bạc chưa trả ở bên ngoài, người ta còn đuổi đến tận trong nhà chúng ta, như thế sao được? Ta là làm chủ mẫu, trong lòng thương xót mấy anh em các ngươi, đã bảo cô cô trả trước cho rồi. Các ngươi đừng sợ, giấy cũng có vân tay tên cũng đã ký, để ta giữ, kẻo sau này người ta ăn quỵt, quay đi quay lại lại tìm tới lão gia… Ca nhi không ngồi sao?”

(*Có nhiều nghĩa, một trong số đó là cách gọi con trai thân mật, nhìn chung là chỉ con trai anh em trong nhà.)

“Cứ thế,” kế toán thuật lại xong cho Thích Trúc Âm, “trong tay đại phu nhân đã nắm hết sổ sách của các cậu trong nhà, chỉ cần bảo chúng ta một tiếng, tất cả cửa hàng của các cậu sẽ đứng tên đại phu nhân ngay, thế này còn ai dám làm loạn nữa?”

Thích Trúc Âm đóng sổ lại, nàng đứng yên giây lát, rồi lại mở sổ ra, nói: “Rất có cá tính.”

Sổ sách xứ lý quả thực chỉn chu, Thích Trúc Âm không kìm được mà nghĩ, nếu sổ sách quân đội cũng có thể làm tốt như vậy, nàng việc gì phải sợ mấy tên cáo già bộ Hộ nữa nhỉ? Nhưng nói cho cùng thì Hoa Hương Y vẫn là cục cưng của Thái hậu, nàng nghĩ một lát, vẫn là thôi đi.

***

Sang tháng Hai tuyết ít dần, Từ châu nhiều ngày trời quang hơn, hễ rảnh là Thẩm Trạch Xuyên lại đưa Diêu Ôn Ngọc ra ngoại thành đi dạo.

Hôm nay vạn dặm không mây, trời trong xanh biếc, tuyết đọng trong rừng đã thoáng có dấu hiệu tan, suối băng tan chảy róc rách, còn thấy cả mấy con thú hoang. Đinh Đào phải thả Phong Đạp Sương Y nên đã dẫn Lịch Hùng ra bìa rừng chơi.

“Mấy hôm nay trông tinh thần không tốt,” Thẩm Trạch Xuyên chà tay bằng tuyết, liếc Diêu Ôn Ngọc một cái, “ban đêm ngủ không ngon sao?”

Gò má nhợt nhạt của Diêu Ôn Ngọc phản chiếu trên sương lá, y khẽ mỉm cười với Thẩm Trạch Xuyên: “Trời lạnh, chân đau mà thôi…” Y thoáng dừng lại, “Nhị gia đến Đôn châu đã nửa tháng rồi, phủ quân nhận được tin gì chưa?”

“Đàm Đài Hổ phát hiện núi Lạc vẫn còn tàn phỉ lang thang, thế nên Sách An bị trễ ở đó mấy ngày, đêm trước bảo tàn phỉ ở núi Lạc đã trừ sạch rồi, thiết kỵ Ly Bắc đã chiếm núi Lạc.” Hôm nay Thẩm Trạch Xuyên đổi sang áo bào bó màu xanh ngọc, bên ngoài khoác áo choàng nhung, trông càng trẻ. Tay phải y đeo chiếc giáp tay bằng da chó, nâng tay lên huýt một tiếng, Mãnh tức thì bay vút ra từ trong rừng, xoay vòng đậu xuống tay phải của y.

Mãnh quá nặng, Thẩm Trạch Xuyên chỉ có thể đỡ được một lúc. Y đút thịt luộc cho vị sứ giả bôn ba hai đầu này rồi lại để nó bay đi chơi.

“Núi Lạc không lo,” Diêu Ôn Ngọc nhìn Mãnh bay đi, “khó là ở Đoan châu kia.”

Toàn tuyến Đoan châu nằm trực diện với sông Trà Thạch, bị kỵ binh Biên Sa gặm nhấm triệt để suốt mấy năm nay, chẳng ai biết bên trong rốt cuộc có bao nhiêu bọ cạp. Tiêu Trì Dã chỉ dẫn theo năm nghìn cấm quân, còn lại đều là thiết kỵ Ly Bắc, hắn không chịu vứt bỏ hoàn toàn trọng giáp của Ly Bắc, đánh một trận ở Đoan châu ắt sẽ tìm được biện pháp đối phó với bọ cạp.

Trái tim của Thẩm Trạch Xuyên cứ thế treo ở Đoan châu.

“Bây giờ trạm dịch đã lưu thông, cho dù có biến cũng có thể lập tức xuất binh viện trợ,” Diêu Ôn Ngọc thấy sắc mặt Thẩm Trạch Xuyên ngưng trọng, bèn lên tiếng trấn an, “vả chăng Nhị gia người hiền tự có trời phù hộ.”

“Lục Quảng Bạch bảo A Mộc Nhĩ trồng lương thực ở bên kia sông Trà Thạch,” Thẩm Trạch Xuyên gạt cành cây khô bên tai ra, “ta sợ lão đã dè chừng Trung Bác từ lâu rồi, trồng ruộng ở ngay phụ cận Cách Đạt Lặc là để tiện đánh trường kỳ với Đoan châu.”

Ly Bắc bây giờ không đánh trường kỳ nổi, nếu trận Đoan châu mà thua, doanh Sa Tam sẽ rơi vào nguy hiểm, đồng thời Trung Bác cũng sẽ chịu một lỗ hổng. Tầm nhìn của A Mộc Nhĩ quá xa, thậm chí Thẩm Trạch Xuyên còn cảm thấy, từ Nam ra Bắc đều không lọt mắt lão.

Hồi tưởng lại chiến sự năm ngoái, trước tiên A Mộc Nhĩ dùng Hồ Hòa Lỗ để dắt mũi Quách Vi Lễ, cho Cáp Sâm thời gian lên Bắc, bọ cạp trà trộn ở biên cương Trung Bác bí mật vận chuyển quân nhu lúc đó chính là để chuẩn bị đánh chiếm chiến doanh Ly Bắc. Hiện tại lão dùng Cáp Sâm để hạ Tiêu Phương Húc, giảm thiểu áp lực từ chiến trường phương Bắc, tăng cường sức mạnh để đối mặt với Thích Trúc Âm. Lão dùng bọ cạp để hãm chân Ly Bắc, dùng kỵ binh để giằng co với Thích Trúc Âm, Trung Bác chính là phần bụng yếu ớt, chỉ cần lão gạt chân nữa ra là có thể đạp đổ chiến tuyến chỉ vừa mới đứng vững ở đây.

Đoan châu là một trận khổ chiến.

Diêu Ôn Ngọc còn định nói gì đó nữa, Phí Thịnh đã phi ngựa tới. Hắn xuống ngựa hành lễ với Thẩm Trạch Xuyên rồi nói: “Chủ tử, Nhan Hà Như tới.”

Thẩm Trạch Xuyên biết Khuất đô mới tra xong tàu vận hàng của Hà châu, chắc là Nhan Hà Như đến tố khổ đây. Chuyện xây cảng mới ở Liễu châu Quyết Tây còn chưa nói thông, y xoay người lại, bảo: “Về thôi.”

***

Đúng là Nhan Hà Như đến tố khổ thật, gã đến quá muộn, đám Chu Quế ngồi cùng nói chút chuyện Liễu châu với gã. Thẩm Trạch Xuyên về gã mới chỉnh đốn lại, lôi chuyện tàu vận hàng của Hà châu ra.

“Quan viên quản tàu vận hàng của Hà châu hồi trước tên là Lương Thôi Sơn, kiêm cả việc thu thuế muối Quyết Tây, năm ngoái hắn và Giang Thanh Sơn chấn chỉnh lại mười ba thành, việc buôn bán của chúng ta gặp khó khăn chính là vì hai bàn tay sắt kia đấy chứ đâu.” Nhan Hà Như không thích ngồi ghế cứng quá, xê xê mông mấy lần, phấn chấn bừng bừng, “Ui da, phủ quân, ta lo nẫu cả ruột! Tên này khó đối phó lắm đó, cũng là loại sắt đá không nhận đồ. Nhưng ngươi đoán xem? Ta còn chưa nghĩ ra cách, hắn đã bị điều đi mất rồi, bảo là đi tra ruộng thành Đan với Đại lý tự, thế là triều đình giải quyết xong luôn hộ ta một cục nợ.”

Thẩm Trạch Xuyên thấy cái tên này quen tai, bèn hỏi: “Lương Thôi Sơn?”

“Lương Thôi Sơn, tự Sùng Thâm,” Nhan Hà Như nằm bò ra bàn, chớp mắt với Thẩm Trạch Xuyên, “ngươi quen hả? Sao không nói sớm! Ta đỡ phải lo.”

Đương nhiên Thẩm Trạch Xuyên quen rồi, người này là chính y bảo Tiêu Trì Dã tiến cử mà, lập tức hỏi: “Điều hắn đi tra ruộng thành Đan ư?”

“Đúng vậy, bây giờ Phan Lận đang đánh lôi đài với Tiết Tu Trác, Tiết Tu Trác là trượng phu chân chính, thế mà lại đi chọc vào tổ ong vò vẽ.” Nhan Hà Như tỏ vẻ bí hiểm, “Phủ quân, ngươi đoán thử chút coi, mấy năm nay, rốt cuộc tám thành đã chiếm bao nhiêu ruộng rồi? Khoản này nếu mà Tiết Tu Trác thật sự tra được ra, đừng có nói là mỗi nhà Phan thị, đến cả Thái hậu cũng còn phải khai nộp ấy chứ, thế gia bây giờ chỉ muốn hắn chết thôi.”

Thế gia chiếm đoạt ruộng dân dẫn đến lưu dân tăng lên, những người tràn về Trung Bác năm ngoái đều là bách tính bị ép đi, vấn đề này Tề Huệ Liên từng cố ngăn chặn bằng cách phổ biến hoàng sách, song lại không đạt hiệu quả tốt ở tám thành, nay Tiết Tu Trác lấy chuyện của Diêu Ôn Ngọc làm bước ngoặt, muốn tóm thành Đan của Phan thị để khai nhát đao đầu.

Đến cả Diêu Ôn Ngọc cũng phải thừa nhận, Tiết Tu Trác có khí phách.

“Lương Thôi Sơn là Phan Lận đề bạt,” Thẩm Trạch Xuyên nghĩ cái hiểu ngay, “thế gia muốn lợi dụng chức quyền ở bộ Hộ của Lương Thôi Sơn để ngăn Tiết Tu Trác tra đất, kéo dài thời gian đến đầu xuân.”

“Long hổ tranh đấu, cứ để bọn họ chém chém giết giết gió tanh mưa máu đi,” Nhan Hà Như vỗ tay khe khẽ, cười với Thẩm Trạch Xuyên, “tốt nhất là đấu đến bao giờ Trung Bác đã ổn định, phủ quân có thể rỗi tay dạy dỗ bọn họ liền!”

“Thế thì e ngươi phải thất vọng rồi,” Thẩm Trạch Xuyên lấy quạt gạt cái ngón tay đang mon men lại gần của Nhan Hà Như ra, “Lương Thôi Sơn này…”

Dưới hiên bỗng nhao nhao lên, Thẩm Trạch Xuyên dừng lại, các tiên sinh trong phòng cũng quay ra nhìn. Chu Quế hơi đứng dậy, thắc mắc: “Cái gì mà làm ầm lên thế? Bên trong đang nghị sự đấy!”

Phí Thịnh vén rèm lên, ánh mắt vượt qua tất cả phóng về phía Thẩm Trạch Xuyên, mặt trắng bệch: “Chủ tử…”

Bầu trời âm u rỉ ra gió, thổi lật góc rèm, gió lớn đến độ các tiên sinh phải lấy tay áo che mặt. Thẩm Trạch Xuyên đứng dậy, phát giác ra điều bất ổn trong biểu cảm của Phí Thịnh, thậm chí y còn cất mấy bước, trong ánh nến lập lòe trân trối nhìn Phí Thịnh.

“Tin khẩn tám trăm dặm,” giọng Phí Thịnh ngưng trọng, “Nhị gia——”

===

[1] Tuyển tự《 Xuất Tái 》