Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt

Chương 145: Hồi Hai Mươi Hai: Đi giữa hai làn đạn (c)



Thứ Năm trời ui ui như muốn chuyển mưa. Những con chuồn chuồn bay rề rà trên các lùm cây bông bụp đỏ thắm. Dưới màn trời ảm đạm, nghĩa trang trông càng thêm u buồn, héo hắt.

Judas đương ngồi chuyện trò với Manuel Ngô dưới tán cây xoan đào tím biếc. Những cánh hoa mỏng mảnh rơi lả tả trong cơn gió thoảng hơi lạnh. Bên tai họ là những thanh âm sôi động của bản nhạc "Tình nhân loại" của Nguyễn Trung Cang do Elvis Phương trình bày.

- Tôi vẫn còn nhớ như in, hôm ấy tôi đi mua hàng ở siêu thị trong lúc bản thân đang bị hạ đường huyết nên đầu óc lơ tơ mơ kinh khủng, bởi lẽ đó mà tôi không nhận ra có vài người đang đứng xếp hàng ở khu vực phía trong dãy kệ số Bốn, tôi cứ ngỡ chưa có ai xếp hàng, vì thế mới bước tới quầy thu ngân tính tiền luôn. Đương nhiên, dầu có thanh minh thanh nga cỡ nào đi chăng nữa, họ cũng cho rằng tôi bất lịch sự và ích kỷ, chứ không phải là bị nhầm lẫn một cách ngớ ngẩn.

Manuel Ngô toan hé môi trả lời, chợt nghe thấy tiếng ̣đằng hắng quen thuộc nên vội ngậm miệng lại.

- Hai cậu theo tôi...

Miguel dẫn hai người vào trong phòng tiếp khách. Căn phòng đó nằm đối diện với dãy hành lang có lối thông xuống nhà kho, đứng từ vị trí này có thể nhìn ra bao quát khu nghĩa trang.

Có lẽ khí trời giúp người thầy đã qua hàng sáu mươi cảm thấy dễ chịu, nên thay vì mở cửa và mời họ vào phòng, ông lại mời họ ngồi xuống băng ghế đá, phần mình thì đi tìm một cái ghế đơn để ngồi.

Miguel dõi đôi mắt buồn hiu nhìn quanh quất nghĩa trang. Giọng nói của ông mang nặng vết hoài niệm xám tro:

- Cách đây mấy mươi năm về trước, có một chàng thanh niên trẻ tuổi đã nhảy lầu tự sát do uất nghẹn với mối tình đồng tính của mình. Trước ngày kết liễu đời mình, cậu ấy đã hỏi thầy rằng, tại sao Chúa luôn bao dung với nhân loại, còn con người lại thích dồn nhau đến bước đường cùng bằng những định kiến và phép tắc mà họ đề ra... Tại sao những người đồng giới yêu nhau thật lòng lại bị cho rằng bệnh hoạn và ngược đời, trong khi nhiều cặp nam nữ bị ép kết hôn lại được nhìn nhận là bình thường và hợp thuần phong mỹ tục...

Hai người im lặng chờ ông kể tiếp.

- Tôi chẳng trả lời được một câu hỏi nào cả... - Miguel lấy khăn mùi soa chậm nước mắt. - Vì sự bàng quan và vô tâm của mình, tôi đã gián tiếp giết chết một mạng người. Nếu như lúc đó tôi trình báo ngay với sở cảnh sát và liên lạc với người thân của cậu ấy kịp thời, ắt hẳn bây giờ...

Miguel gục đầu, ngó mông lung vào hai lòng bàn tay chai sạn. Một hồi lâu sau mới cất giọng rầu rầu:

- Thôi, sắp tới giờ hẹn rồi. Con vào đây để ta nói chuyện riêng một lát. Còn tín hữu Jayden, cảm phiền cậu ra xe đợi chúng tôi nhé?

Judas gật đầu và mỉm miệng cười, rồi nhanh nhẹn trở ra chỗ đậu xe để chuẩn bị.

Ngắm nghía hàng chò lan treo dọc theo phía trên lan can một đỗi, Miguel mới bộc bạch nỗi lòng:

- Ta biết con có suy nghĩ tân thời, nhưng không nên tân thời tới mức phản lại những điều răn trong Kinh Thánh. Con hiểu ý ta muốn nói chứ?

- Dạ, thưa Thầy, con thành thật xin lỗi vì đã khiến Thầy phiền lòng.

Miguel vỗ nhẹ vai của đứa con trai đỡ đầu. Nụ cười trên môi gượng gạo khôn tả, bởi ông chưa bao giờ muốn khiến cho nó bị nhọc tâm vì sự hà khắc của mình.

Chiếc xe mà Judas chở hai thầy trò mang thương hiệu Chevrolet. Nó có logo hình dấu cộng, trông xa khá giống biểu tượng chữ Thập. Nước sơn đen tuyền bóng loáng. Chỗ ngồi đủ cho sáu người, đã tính luôn tài xế.

Judas đưa hai thầy trò đi ăn sáng. Địa điểm mà gã chọn là một quán bán cơm tấm ngon nức tiếng trong chợ Bến Thành. Theo sự giới thiệu của thân chủ họ Đường, nơi đây bán gà nướng ngon hơn thịt heo nướng, nên gã bèn thuật lại cho họ biết để lát nữa tới đó không bị mất thì giờ vì phân vân chọn món.

Ăn sáng xong, Judas chở hai thầy trò tới ty Cảnh sát Diệp Trầm.

Công tố viên Huỳnh Khải Trạch đã có mặt trong phòng thẩm vấn. Anh ta có diện mạo lai Tây, dáng vóc cao lớn hơn hẳn khổ người thường thấy ở đàn ông Á Đông, ăn bận rất mực bặt thiệp và nho nhã.

Trên bàn để sẵn ba chiếc tách cà-phê thơm phức, dĩa lót tách làm bằng men sứ trắng trơn láng và không hoa văn, một hũ nhỏ đựng viên đường đặt giữa tâm bàn. Mặt bàn không trải khăn, từng sớ gỗ được lau chùi thường xuyên nên đã lên nước bóng loáng.

- Anh là luật sư của Ngô Kỳ Anh?

- Phải. Tôi là luật sư Judas Amadeus Monteclaro.

- Tôi là công tố viên Huỳnh Khải Trạch.

Hai người bắt tay với nhau xong, mới ngồi lại ghế. Manuel Ngô vẫn còn đứng nghiêm, đợi chàng công tố viên mời ngồi mới chịu ngồi xuống. Trong lúc y sửa soạn lại trang phục để ngồi vào chỗ của mình, Judas đã hớp xong một ngụm cà-phê, chắc là dở quá nên anh ta chỉ uống đúng có một ngụm duy nhất.

Huỳnh Khải Trạch vào đề ngay:

- Chúng tôi chỉ muốn hỏi Mục sư rằng, tại sao g-ầ-n mười một năm về trước lại không ra trình báo về vụ việc n-g-h-i-ê-m t-r-ọ-n-g này với cơ quan an ninh địa phương?

- Tôi... Tôi không hề hay biết người nằm dưới mộ là Thường Khán Cảnh. Anh cũng biết lương hướng của một người tu sĩ mà, tôi đâu có đủ khả năng để nhờ giám định ADN xem thực hư ra sao. Trong cuốn nhật ký của cha mình, ông ấy không có đề cập đến chuyện hũ tro cốt ấy là của ai...

- Trang nhật ký cuối cùng là do anh xé, cha anh xé hay ai khác đã xé?

- Tôi không biết. Mà...

Huỳnh Khải Trạch và Judas nhìn nhau dò xét. Manuel Ngô vẫn giữ im lặng, sự im lặng của y khiến bầu không khí trở nên nặng nề cực điểm.

Tiếng nuốt cà-phê của Huỳnh Khải Trạch vang lên vài bận rồi ngừng lại.

- Chà... Hết cà-phê rồi. - Nói đoạn, Huỳnh Khải Trạch kéo ghế đứng dậy. - Tôi xuống căn-tin rót cà-phê. Ở đây, Mục sư từ từ mà nhớ ra nhé?

Manuel Ngô gục đầu, chắp tay thành hình chữ Thập. Anh ta đương hỏi ý Thiên Chúa ngự ở Ngôi cao.

- Thành thật xin lỗi anh, nếu như những gì mà tôi sắp nói có thể làm tổn thương tâm can anh...

Judas ra hiệu mình sẽ chấp nhận được bằng cách lắc đầu mà cười nhẹ.

- Dù rằng đã biết hoàn cảnh gia đình anh, nhưng tôi phỏng đoán cuộc sống của anh chắc cũng không tới nỗi nào phải không?

- Phải. Tôi chỉ thiếu thốn tình thương, chứ về khoản vật chất thì không hề thiếu gì. Một phần là nhờ ông dượng đi công tác suốt nên hai bên ít chạm mặt nhau, vì vậy má tôi dễ bề lo lắng và cưng chiều tôi hơn... Ý của Mục sư là hoàn cảnh sống của Mục sư trái ngược với tôi phải không?

- "Phải không" hay "Không phải"... "Phủ định" hay "Khẳng định"... Cái nào cũng có khả năng dẫn đến đau thương và chết chóc cả... - Manuel Ngô ngước nhìn trần nhà đóng la-phông cũ mèm, thô thiển. - Do sợ tôi buồn tủi vì kiếp sống khốn khó, mỗi tối hai cha con lại rứt giấy tập ra chơi cờ ca-rô; giải sầu với ông ấy và thêm niềm vui nho nhỏ cho tôi. Tôi không biết trang cuối cùng còn hằn nét chữ của cha tôi có phải là trang giấy đã bị chúng tôi xé ra để làm "bàn cờ" hay không nữa. Năm đó tôi chỉ mới lên tám...

Cây Thánh giá lấp lánh dưới sự tác động ánh sáng của ngọn đèn trần có chụp. Nửa khoảng tối hắt bóng lên khuôn mặt bầu bĩnh hiền từ của Manuel Ngô.

- Ông ấy gửi tôi vào trường dòng không phải vì đức tin, mà là do lo sợ tôi cù bất cù bơ, rồi sau này lớn lên sẽ trở thành kẻ bất hảo như mình. Có phải cha tôi đã lợi dụng Thiên Chúa không?

- Không, tôi nghĩ đó là cơ duyên dẫn dắt Mục sư bước vào con đường phụng sự Thiên Chúa.

Hai người khe khẽ hát vài câu trong bài "Đêm Thánh vô cùng" do nhạc sư Hùng Lân viết lời Việt từ bài Thánh ca bất hủ "Silent Night"; màn trình diễn Thánh ca xuất sắc nhất phải kể đến là dàn hợp ca của trung tâm ca nhạc Asia, với sự góp mặt của các danh ca như Ngọc Lan, Duy Quang, Như Quỳnh, Trung Hành, Thùy Dương, Tuấn Ngọc,...

"... Ôi Thiên Chúa thương ngươi đến quên mình

Bơ vơ chốn quê nhà lúc sinh thành

Ai đang sống trong lạc thú

Nhớ rằng Chúa đang đền bù..."

Ở trong đại sảnh, Miguel được anh em họ Cổ thết đãi một bữa tiệc trà tuyệt hảo. Ông không biết nên làm cách nào để đáp lại thịnh tình của họ.

Cắn xong một miếng bánh tart kiwi, Cổ Tây Tuyết mới che miệng mà hỏi:

- Làm cha đỡ đầu có khó không, thưa Thầy?

- Ồ, dễ lắm. - Miguel him mắt. - Kỳ Anh rất ngoan và hiểu chuyện nên tôi với cậu ấy chưa từng phiền lòng nhau việc gì. Sau giờ học, nó thường phụ tôi lau dọn nhà thờ, nuôi dưỡng đám chim cúc cu trên gác mái, cắt tỉa cây cảnh xung quanh trang viên, quét tước và mần cỏ ở nghĩa địa, chưa kể đến là nó còn giúp tôi chuẩn bị các buổi lễ định kỳ của đạo Tin Lành... Tên Thánh của tôi là Miguel, nên tôi đặt cho nó cái tên Thánh Manuel, hai cái tên trùng nhau bốn chữ cái: M, U, E và L.

Cổ Chinh Sơn rót nước trà vào trong tách của Miguel. Ông liền vồn vã cảm ơn.

- Nước trà không ngon mấy, mong Thầy thông cảm cho.

- Chúa ơi, đã được tiếp đãi thịnh tình đến nhường này rồi, tôi nào có ý nghĩ bình phẩm chi.

Huỳnh Mẫn Trạch đương ngồi vắt tréo chân xem báo ở bàn kế bên. Tiệc trà này do anh ta chi trả, tốn những một trăm đồng bạc, tương đương một phần ba ngày lương của gã.

- Có mua bánh hồ đào cho tôi không?

Mắt vẫn không rời khỏi trang báo, Huỳnh Mẫn Trạch trả lời anh trai:

- Trên bàn.

Huỳnh Khải Trạch bưng dĩa bánh hồ đào ưa thích và tách cà-phê nóng bốc khói vào phòng thẩm vấn.

- Mục sư có gặp người nào nói giọng Bắc trong tháng vừa qua không?

- Có. Nhưng tôi không tiếp đón anh ta.

- Tại sao?

Manuel Ngô cắn môi. Rồi vân vê phần eo của tấm áo dòng. Đoạn hỏi:

- Nếu như tôi nói là do bộ dạng anh ta trông quá khả nghi thì công tố viên có tin tôi không?

- Tôi không có mặt ở đó thì làm sao tôi có thể đưa ra một câu trả lời chắc chắn được.

- Tôi cần niềm tin ở công tố viên.

Huỳnh Khải Trạch phì cười. Gã vuốt tóc mấy cái. Rồi lần tay vào túi áo trong của chiếc áo vest đương mặc để lấy ra một cái hột quẹt và một điếu xì-gà thượng hạng, sau đó mồi thuốc và hút.

- Hạt hồ đào có chứa nhiều chất dinh dưỡng tốt cho trí não. Mục sư và luật sư ăn một miếng nhé?

- Trí nhớ của tôi cực kỳ tốt, nên... - Judas đẩy dĩa bánh ngọt về lại phía khổ chủ.

- Tôi vừa mới ăn sáng xong.

Huỳnh Khải Trạch không mời mọc nữa, gã giữ điếu xì-gà trên tay, rồi bưng tách cà-phê chỉ còn âm ấm lên nhấp một ngụm. Đặt tách cà-phê xuống chiếc dĩa lót xong, gã mới cầm một miếng bánh hồ đào mà ăn với dáng điệu hết sức từ tốn.

Đâu mặt chàng công tố viên, linh mục và luật sư giữ im lặng một cách tuyệt đối, đến nỗi gã cứ ngỡ hơi thở của hai người đã hóa thành hư không và trái tim đã ngưng đập.

- Có một điều rất đáng ngạc nhiên, đó là khu nghĩa trang sau lưng nhà thờ được sắp xếp đúng theo hình dạng ô bàn cờ ca-rô. Tôi muốn biết nghệ thuật sắp đặt này mang hàm nghĩa gì?

Manuel Ngô trân trối nhìn chàng công tố viên cao sang.

- Theo sự suy đoán vẩn vơ của một kẻ yêu Nghệ thuật như tôi, thì nghĩa trang này chia làm hai nhóm: Một thiện và một ác. Nhóm ác nằm xuôi theo chiều Nam - Bắc. Nhóm thiện nằm xuôi theo chiều Đông - Tây. Cha của anh là một nhà nghệ thuật gia ẩn mình dưới lốt bất hảo.

Judas liếc mắt nhìn sang phía Manuel Ngô, y đương cúi thấp đầu mà nghĩ ngợi thật lung.

- À, đôi giày đẹp quá, Mục sư mua ở đâu thế?

Manuel Ngô đáp rằng đôi giày này do tín hữu Jayden mua tặng.

Huỳnh Khải Trạch hơi nhếch môi cười:

- Tôi quen vài Mục sư bên Hoa Kỳ, ngoài chức sắc trong Hội Thánh Tin Lành, họ còn là những người lao động thuộc dạng trí thức, kiểu như làm dịch vụ chạy giấy tờ, luật sư, bán bảo hiểm các loại,... chứ không túc trực suốt trong nhà thờ như Mục sư. Xin thứ lỗi nếu tôi lỡ quá lời, tiền lương của Mục sư có đủ để trang trải chi phí sinh hoạt thường nhật không?

Manuel Ngô bật cười:

- Nhờ có tấm lòng hảo tâm của các tín hữu, mà tôi chưa bao giờ thiếu ăn thiếu mặc. Như một gia đình tín hữu trên Ba Vì mỗi tháng ba lần gửi sữa tươi xuống cho nhà thờ. Một gia đình tín hữu khác ở Đà Lạt thì gởi xuống sáu, bảy cần xé rau, củ và quả rất tươi ngon. Ngoài ra, tôi còn nhận được thực phẩm tiếp tế của ba trang trại nuôi gia súc và gia cầm ở ba miền Nam - Trung - Bắc và một ̣đầm nuôi tôm ở Cà Mau. Do số lượng thực phẩm nhiều không chứa hết, nên tôi cùng các bà phước hiệp nhau tổ chức nấu cơm rồi phát miễn phí cho các nhà thương và hộ nghèo lân cận nhà thờ. Mỗi người được nhận một phần cơm canh ba món và một bịch sữa đậu hoặc sữa tươi đun sôi.

Huỳnh Khải Trạch từng chứng kiến cảnh tượng ấy nên gật nhẹ đầu xác nhận lời của vị linh mục sắp chạm ngưỡng trung niên là có thật.

- Cha đỡ đầu của Mục sư là Đức Giám mục La Viễn Phương à?

- Phải.

- Chức sắc Giám mục trong Tin Lành và Công Giáo có khác nhau không?

Manuel Ngô mím môi, gật đầu.

- Phức tạp nhỉ?

- Phải, rất dễ xảy ra xích mích và hiềm khích nếu giải thích sâu thêm.

Đây không phải là buổi truyền đạo, nên Huỳnh Khải Trạch lảng sang chủ đề khác:

- Mục sư và cha ruột thường ăn cơm với món chi?

- Cà tím nướng rắc đậu phộng giã nhuyễn, cá kèo kho khô, cá hủn hỉn kho tiêu và trứng ngàn món, hôm thì luộc, bữa thì chiên qua quýt, lúc thì chần với nước sôi...

- Có món nào bổ sung dinh dưỡng cho trẻ nhỏ không?

- Tiền hút chích còn không có thì lấy đâu mà lo cho tôi chứ?

Bản giám định tử thi không hề phát hiện ông ta có dương tính với các chất kích thích và gây nghiện. Chẳng lẽ cha của người tu sĩ này cũng là một cảnh sát chìm sao? Nhưng nếu điều đó là sự thật, thì ông ta đã quá nhẫn tâm với con trai rồi.

Huỳnh Khải Trạch xem đồng hồ đeo tay thì thấy đã quá một giờ trưa. Xét thấy những điểm nghi vấn đã nắm vững được bốn phần, gã bèn kết thúc cuộc thẩm vấn Manuel Ngô. Gã kéo ghế đứng dậy, nói vài lời chúc tốt đẹp rồi bắt tay họ trước khi để hai người ra về.

Thấy sắc mặt Manuel Ngô buồn rười rượi, Judas bèn xin phép Thầy Miguel cho mình chở vị linh mục trẻ tuổi đi vài vòng đổi gió.

Cung đường Hồ Biểu Chánh nằm cặp theo một nhánh nhỏ của con sông Sài Gòn, quanh năm được hưởng bóng mát của hai hàng cây bần xanh tốt. Với những rẻo đất dễ sạt lở như vầy, nên trồng những loại cây như bần, mắm, đước, vẹt,... để chúng giữ đất, chớ ham chi ba cái giống cây hoa hòe tươi đẹp mà chẳng giúp ích được gì.

Từ xa đã trông thấy vài người bắc ghế ngồi câu cá, một nhóm nữ sinh trải bạt bày tiệc dã ngoại, một bà cụ đang ngồi trên băng ghế đá ngắm cảnh và nghe nhạc. Dọc dường đi, Judas ghé vào quán Starbucks mua cho mỗi người một ly cà-phê đặng uống cho tỉnh táo.

Đậu xe vào bãi xong, mỗi người khiêng một cái ghế xếp đi tìm chỗ thanh vắng để ngồi nói chuyện. Vì trời âm u quá làm bà con mình sợ mắc mưa mà mé sông này thưa người hơn mọi bữa, bọn họ muốn tùy nghi thế nào cũng được, không sợ nhiều cặp mắt săm soi hay trăm lỗ tai nghe trộm việc riêng.

Vẳng đến bên tai hai người là bản nhạc "Tình lỡ" do cô Ngọc Lan trình bày, tình khúc này là bài hát nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Thanh Bình. Cảm hứng sáng tác bài này xuất phát từ việc cụ hay tin gia đình người yêu đã gả nàng cho một người đàn ông môn đăng hộ đối, bỏ lại cụ bơ vơ nơi đất khách quê người với vết thương lòng sâu hoắm.

Hai người ngồi gần chỗ của bà cụ đẹp lão. Rồi bị chủ đề mà bà khơi gợi lôi cuốn luôn. Chủ đề ấy như vầy:

- Tự dưng không thích một ông tổng thống, thế là bị chụp cho cái mũ chống đối và vu cho mình thuộc thành phần này, tổ chức nọ nên mới không ưa ông ta. Chừng nào tôi nói tôi ghét, thì câu nói trên mới không còn là câu chụp mũ nữa, mà là một lời nhận xét khá đúng đắn và tỉ lệ chính xác thường trên 50%. Do "Ghét" đã thuộc phạm trù thù hận, tẩy chay rồi.

Manuel Ngô mỉm miệng cười, thay cho một lời xác nhận.

- Việc yêu thích một người hoặc một cái gì đó là một chuyện hoàn toàn thiên về cảm tính, tỷ như tôi nói tôi thích nghe Thanh Lan ca hơn Thanh Thúy, rồi bỗng dưng có kẻ nhảy vào biểu, "Đồ không biết thưởng thức âm nhạc thượng thặng." Các cậu nghe có vô lý không chớ?

Judas đưa mắt ngó lung ra con sông lơ thơ bóng lục bình trôi.

- Nếu yêu quý một người chính khách nào đó, đừng biến họ trở thành kẻ độc tài hay lãnh tụ, mà hãy giúp cho tiếng thơm của người ấy được vang xa hơn bằng cách bảo vệ người đó trước những tin đồn thất thiệt hoặc góp ý nếu người đó thực hiện công tác chưa tốt.

Bà nói tới đó, thì bản nhạc "Lệ đá" do ban Tứ ca Nhật Trường trình bày vang lên. Bài hát này có năm lời, do thi sĩ Hà Huyền Chi viết lời theo giai điệu của nhạc sĩ Trần Trịnh. Nhạc phẩm mà họ đương nghe kết hợp giữa lời thứ Nhất và thứ Hai.

Bà nghe tới non giữa bài, bỗng dưng cất giọng nhờ vả:

- Nếu có thể, mong các cậu góp lá phiếu hay tiếng nói giúp tổng thống Hác Đăng Khánh đắc cử tiếp nhé?

- Dạ, ra là bà theo đảng Dân Chủ? - Manuel Ngô hỏi thăm.

- Không, tôi theo Hác Đăng Khánh.

- Nghe nói tổng thống đồng tính nên không có vợ con gì... Sao bà cười vậy ạ? - Judas sụt sè hỏi.

Nhưng bà cụ không đáp, chỉ che miệng cười tủm tỉm, ánh mắt toát lên vẻ tinh nghịch như ngày nào. Giai điệu của nhạc phẩm "Bài cuối cho người tình" do ca sĩ Elvis Phương ca nhắc bà nhớ về đêm hát karaoke cuối cùng với người em trai khờ dại ấy.

Ông Trời quyết định làm mưa sau một hồi ngẫm nghĩ, tính toán. Ai nấy đều hớt hải tìm chỗ trú mưa; đám nữ sinh may có đem theo cây dù tán rộng che nên đỡ bị ướt mình.

Judas cởi áo vest làm tấm bạt che mưa cho cụ bà. Cả ba người cùng nhau chạy ra ngoài bãi đậu xe. Vì sợ bà già rồi nên chân yếu, Manuel Ngô nhỏ nhẹ đề nghị được phép dìu bà.

Cụ bà không chút ngần ngại mà leo lên xe của Judas. Do gầm xe hơi cao, nên Manuel Ngô phải đỡ bà vào. Mùi sáp thơm thoang thoảng thật dễ chịu, khứu giác của bà chỉ nhận biết được mỗi hương vanilla, còn mấy loại kia cụ đành bó tay chịu phép.

- Tôi đãi các cậu một chầu bún bò Huế nghen?

Judas bông đùa:

- Sức cháu ăn mạnh lắm bà ơi.

- Nhìn tướng là cũng biết rồi. Ăn cỡ năm tô mỗi người thì tôi dư sức qua cầu.

- Cháu ăn hai tô thôi, nhường tám tô lại cho ảnh. - Manuel Ngô cười híp mắt. Nét cười đơn sơ mà hồn hậu như loài hoa hướng dương thấy nắng Đông.

Quán bún bò Huế của o Thắm cách nhà bà cụ ba dãy phố về phía Tây, khách vô ra nườm nượp như đi trẩy hội, vì hai bên là chỗ thân tình nên bà biết ý gọi điện đặt bàn sớm, nhờ vậy mà họ có chỗ ngồi.

Cụ bà gợi ý nên gọi hai tô "xe lửa" thì sẽ vừa sức ăn của hai người hơn, phần mình thì gọi tô cỡ trung.

Nghe dứt bản nhạc "Thương nhau ngày mưa" do ca sĩ Elvis Phương trình bày thì đồ uống được đem lên. Kế đó là ba phần bún bò Huế nóng bốc khói và thơm nồng mùi ớt sa-tế.

- Bà ơi. - Manuel Ngô cắn môi.

- Có chuyện chi vậy Mục sư?

- Dạ, cái này là cái thau chứ đâu phải cái tô?

- Thì đó, tô "xe lửa" là vậy đó. Nếu ăn không hết thì lát sớt qua cho cậu luật sư... - Vừa nói, cụ bà vừa nhỏm dậy. -... để tôi kêu mấy đứa nhỏ đem ra cái tô cho Mục sư dễ sớt.

Judas che miệng cười. Đôi bờ vai gã rung rung. Đôi mắt nâu biếc híp lại. Vài nếp nhăn mờ nhạt vắt ngang qua vầng trán cao rộng. Càng cười, những nét quyến rũ càng hiện rõ trên gương mặt gã.

Manuel Ngô cố hết sức mới ăn hết nửa cái thau bún bò Huế, còn bao nhiêu thì y nhờ Judas ăn giùm. Y thực sự rất nể sức ăn của tín hữu Jayden, một cái tô "xe lửa" và một cái tô bún bò y sớt qua hồi nãy tương đương với khẩu phần của năm người, ấy vậy mà anh ta "đánh chén" ráo trọi! Đúng là trai tráng Nam Mỹ có khác.

Bà cụ đương đứng tính tiền ở quầy thu ngân, nhác thấy hình bóng ai mà thoáng sững sờ, môi hé một nụ cười buồn. Rồi quày quả lại bàn mà nói:

- Xin lỗi Mục sư và cậu luật sư nghen, tôi có đứa cháu đã lâu không gặp, nên tính quá giang xe nó về nhà. À, hóa đơn đây, tôi đã trả hết rồi.

Nói đoạn, bà vội vã chạy ra ngoài hàng hiên đưa mắt ngó chiếc xe Audi, nếu như người ngồi bên trong không phải là cậu trẻ thì bà sẽ bắt taxi về nhà.

Người ngồi trong xe từ tốn bước ra. Tuy tán dù đã che khuất mặt người ấy nên bà không trông rõ dung nhan, nhưng tướng đi và vóc người đã giúp bà nhận ra danh tính.

Hác Đăng Khánh dắt người thương trọn kiếp lên chiếc xe Audi chống đạn.

- Chị vẫn không bỏ thói quen ăn món nước mỗi khi trời trở lạnh... - Vừa lau miệng cho bà, chú vừa trêu.

- Tôi già, tôi xấu lắm đúng không?

- Tôi mà yêu chị vì sắc đẹp thì đã cưới vợ khác từ khi còn trẻ khỏe rồi... Chị vẫn chẳng chịu hiểu cho tôi...

- Cậu yêu tôi nên cậu bao biện cho tôi, chớ không ít kẻ nói tôi là con lăng loàn, trắc nết, là...

Hác Đăng Khánh luồn tay vào làn tóc đã bạc trắng của người thương mà khẽ nói:

- Nếu tình yêu mà định nghĩa được thì đó không phải là tình yêu đích thực, bởi tình yêu đích thực chẳng hề có lý do, chẳng màng đến thân phận, chẳng bận tâm đến tôn giáo, cũng chẳng vì quyến luyến mê mải tài cao hay học thức, sức vóc hay dung nhan của người đó.

- Cậu làm việc thế nào mà bị bà con chửi là "Đồ độc tài" vậy?

- Chẳng biết nữa... - Hác Đăng Khánh gục đầu vào vai người thương mè nheo. Vòng tay chú ôm chị gái thật chặt. - Tự nhiên ghét hà!

- Tự nhiên sao được hả ông tổng? - Bà véo lỗ tai cậu trẻ. - Thôi, đừng nhõng nhẽo nữa... Đầu sắp hai thứ tóc rồi mà còn bày đặt làm nũng, làm nịu.

Chiếc xe đỗ xịch trước cổng nhà bà cụ, bà bèn gỡ tay cậu tình nhân nhỏ, đoạn lấy dù rồi bước xuống xe. Mưa vẫn rơi lắc rắc trên khu phố nhỏ. Ao sen trong khoảnh sân trước nhà bà cụ như nhuộm sắc bàng bạc của những giọt nước mưa hiền hòa. Cháu trai nhà bà đương chơi guitar, bản nhạc ấy là có tựa đề "Bài không tên số Năm" của nhạc sĩ Vũ Thành An; bà thường nghe qua giọng ca của Tuấn Ngọc:

"... Hãy cố vươn vai mà đứng

Tô son lên môi lạnh lùng

Hãy cố yêu người mà sống

Lâu rồi đời mình cũng qua..."

- Ngoại, sao ngoại khóc vậy?

- Cháu bà hát hay quá nên bà mừng bà khóc... - Lời chống chế vụng về của bà làm cháu trai bật cười khúc khích, nhưng thảng trong điệu cười là một sự chua xót và lo ngại khôn cùng, bởi anh ta sợ rằng bà ngoại thân yêu đã bắt đầu có triệu chứng lú lẫn thường gặp ở người cao tuổi.

Lời bài hát này sao mà giống hệt hoàn cảnh của bà và cậu tình nhân muôn thuở. Đứa cháu trai đương giúp bà cởi giày; vừa làm, anh ta vừa hỏi bà đi chơi có vui không, có chuyện gì đáng nhớ để kể lại cho cháu bà nghe không. Nhưng trong tâm trí của bà chỉ rặt một nỗi niềm tư lự, buồn thương vời vợi...

Nhạc sĩ Thanh Sơn dành tặng cho vợ mình bản nhạc "Hương tóc mạ non", sở dĩ lấy tựa này vì vợ của ông tên Hương; ngoài ra ông còn viết thêm cho bà một ca khúc mang tựa đề "Mùa hoa anh đào" do vẻ ngoài của bà hao hao như gái Nhật. Còn "nhạc sĩ" Hác Đăng Khánh dùng tình yêu để phổ thành những khúc nhạc không lời dành tặng cho mỗi mình bà, nhịp tim đây là tiếng trống, hơi thở đây là vỹ cầm, ánh mắt nồng nàn kia là đàn Cello trong trẻo, môi cười đây là nhịp phách vui tai, cử chỉ dịu dàng đó là dương cầm tha thiết.

Tại sao bà lại ngu dại đánh rơi mối tình tuyệt đẹp với người đàn ông chung thủy ấy chứ?

"Bing boong... Bing boong..." Có ai nhấn chuông cổng nhà của họ, cháu của bà liền mau mắn xỏ dép vào, rồi chạy ra xem mặt.

- Ô, anh là?

- Ông chủ tôi có quà gửi tới cho ngoại anh.

- À... Có cần ký tên... Ơ này!

Cậu hiến binh mặc âu phục trao cho cháu bà một bó hoa hồng diễm lệ, rồi lanh lẹ kiếu từ, không kịp để cho cháu ngoại bà níu lại kịp.

Bó hoa có đính một tấm thiệp nhỏ ghi một hàng chữ cũng nhỏ nốt. Trên ấy đề tựa của một bài hát: "Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau", tình khúc này do nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ của thi sĩ Du Tử Lê.

oOo

Tống Ngạn trình thẻ hội viên cho tên quản lý nhà tắm công cộng. Anh ta liền cà thẻ, rồi thực hiện một vài thao tác với máy tính tiền; đợi hóa đơn in ra xong xuôi mới trả lại thẻ cho gã.

- Căn-tin hôm nay có bán các loại mỳ Nhật Bản và bánh ngọt kiểu Tây.

- Không sợ lỗ vốn sao?

Hắn đáp:

- Không phải việc của tôi.

- "Cao danh quý tánh" của người đề ra kế hoạch "phi thường" trên là ai thế?

- Còn ai trồng khoai đất này ngoài hai cậu chủ. Họ tự dưng nổi hứng chỉnh sửa căn-tin cũ thành một nhà hàng mini. Trong khi lượng khách vốn chẳng có bao nhiêu... À, khoan đi đã!

Hắn đưa cho gã một xấp phiếu ăn giảm giá. Kiểm kỹ thì thấy có một phiếu ăn miễn phí, với tổng số tiền chi trả lên đến năm mươi đồng, gã bèn quyết định sẽ đãi ba con heo ở nhà một bữa thật linh đình.

Căn-tin được trang hoàng theo phong cách Nhật Bản, rất sang trọng nhưng vẫn giữ được nét gần gũi, ấm cúng. Đầu bếp làm việc ở đây đều tốt nghiệp ở các trường Ẩm Thực danh giá. Nhân viên phục vụ thông thạo tiếng Anh, một số người còn biết cả tiếng Nhật.

- À...

Hóa ra hai cậu chủ thấy mặt hậu của nhà tắm công cộng nằm cặp theo mé sông và gần chân cầu chữ Y nên mới quyết định xây nhà hàng ba sao để đón khách ăn đêm. Khách ngồi dùng bữa ở hàng hiên đã kín bàn, Tây có, ta có, mà Á Đông và Phi Châu cũng có. Để tránh mùi nước sông đôi khi không thơm tho cho lắm, hai người đã trồng thêm một dãy hoa dạ lý hương trắng ngà đan xen với cây dành dành vàng nhạt; sợ không "đủ đô", mỗi một bên cầu thang họ trồng một loại cây thân gỗ có hoa thơm khác nhau: Bên phải trồng cây Hạnh Phúc và bên trái trồng cây Bằng Lăng. Những chậu hoa sen đá, lan hồ điệp, phong lữ, cây không khí treo dọc hàng hiên, điểm những vẻ xinh tươi cho không gian nhà hàng.

Ngắm cảnh chán chê, Tống Ngạn mới quay vào đặt đồ ăn và thức uống. Thằng móm khoái ăn thịt nướng, thằng ngủ không biết trời đất ưa ăn cá, còn thằng Nội Thành lại hảo Yakitori. Tính tổng số tiền những sáu mươi đồng, gã phải bù vào mười đồng tiền đồ ăn và một đồng rưỡi tiền thuế giá trị gia tăng. Thấy có một phiếu giảm giá ghi tặng một dĩa lươn cỡ nhỏ, gã bèn đổi luôn.

Trong lúc đợi đồ ăn, gã lại quầy bar ngồi đợi. Cái ghế màu xanh biển, có thanh gác chân và lưng dựa thấp, cần trục điều chỉnh độ cao thấp rất dễ sử dụng.

Người đàn ông ngồi bên cạnh anh ta có màu tóc đỏ hung lạ mắt, nước da trắng mét bệnh hoạn, lại thêm đôi môi mỏng như cánh hồng, nên càng khiến diện mạo dễ gây ấn tượng với người mới gặp lần đầu.

- Tôi tên Vân. Anh tên chi?

- Tôi tên Ngạn.

- Nguyễn Ngọc Ngạn?

Tống Ngạn phá lên cười khùng khục. Thằng cha này cố tình chọc cho gã khai ra họ tên thật. Rất tiếc, gã không bị ngu.

- Anh là Mây, tôi là Ngạn, hai ta tuy cùng bay trên bầu trời nhưng không cùng chung một nhịp điệu đâu.

- Trời cao đất dày dung chứa mọi thành phần nhỉ?

Định sẽ mua đồ ăn cho đàn heo xong thì về, song câu hỏi của anh chàng "Thần thoại Hy Lạp" đã cầm được chân Tống Ngạn, gã bèn ngoắc anh bồi lại, rồi đưa tờ phiếu ăn giảm giá 50% và gọi một tô mỳ Ramen cỡ lớn.

- Hai người muốn nghe bài chi cho đỡ nhàm không? - Tên quản lý bất thần xuất hiện sau lưng họ.

Tống Ngạn và Ivan Choi đều đồng ý để cho hắn ta tự chọn nhạc. Hắn bèn bật bản nhạc "Mây lang thang" do cặp song ca Kiều Nga - Trish Thùy Trang trình bày, tình khúc này được nhạc sĩ Nam Lộc viết lời Việt từ bài hát "A cowboy's work is never done" của đôi vợ chồng nhạc sĩ Sonny Bono - Cherilyn Sarkisian đồng sáng tác. Có một điều hết sức thú vị là hầu hết nhạc ngoại quốc khi được chuyển sang lời Việt đều được viết thành những tình khúc dịu ngọt hoặc ê chề, khắc khoải; chỉ có một số tương đối nhỏ là viết về những chủ đề khác như tình bạn, tình thầy trò, tình thân trong gia đình hay mang tính triết lý xã hội.

Bài này Tống Ngạn từng nghe một lần, lần ấy gã nghe qua phần hát đơn của ca sĩ Kiều Nga.

- Tôi làm luật sư. Còn anh?

- Tôi làm nhà báo.

- À, hai bên đều dùng miệng lưỡi và lợi dụng sơ hở để ăn tiền thiên hạ.

Tống Ngạn chợt nhớ đến tác phẩm "Bốn mươi năm nói láo" của nhà văn Vũ Bằng. Gã mới "nói láo" được có bốn năm, bằng một phần mười sự nghiệp "nói láo" của cụ. Gã học cùng trường với ký giả Sương Tuyết, và mọi biện luận của gã đều bị anh ta bẻ gãy. Gã từng hỏi tại sao anh ta lại không học Luật Khoa, bởi lẽ miệng lưỡi của anh ta đủ cứng cỏi để cãi thắng. Thì anh ta trả lời như vầy:

"Có người không muốn vào Y Khoa vì sợ phải thực tập trên cơ thể động vật còn sống. Còn tôi, lý do của tôi phiến diện hơn, tôi không muốn học Luật là vì không muốn bào chữa cho kẻ bất nhân để kiếm cơm sống. Nếu gia đình tôi dư ăn dư để, ắt hẳn tôi sẽ chọn ngành này mà không hề do dự gì, vì sẽ dễ bề làm luật sư cho bên Thiện mà không sợ người nhà bị đói hay bản thân bị mua chuộc."

Ăn uống và trò chuyện với gã trai tóc đỏ hung đến mười một giờ rưỡi, Tống Ngạn mới kiếu từ ra về. Anh ta chợt ngẫu hứng mua tặng gã một phần tempura thập cẩm cỡ lớn, bảo rằng đấy là quà kết tình bang giao.

Chiếc xe Mustang năm chỗ thiếu vắng đàn heo nên trông buồn thênh thang. Sau này về già, từng đứa phải chết, không biết thằng lìa đời sau chót sẽ sống như thế nào ha?

Tự dưng, Tống Ngạn nhớ đến một người thiếu niên đã lâu không gặp...

Dù rất mực yêu thương con Út, nhưng dường như ông Vệ không thích biểu lộ ra ngoài. Mỗi bận con Út tới quán net trò chuyện với bạn trai, từ vị trí ban công nhìn sang bên kia đường, gã lại thấy ông ta nhờ chủ quán đưa đồ ăn, thức uống cho con trai, đưa xong rồi lại vội vã lên xe ngồi chờ cậu ta. Chắc ông ta dặn chủ tiệm net không được nói đó là thực phẩm của mình, nên cậu ta không mảy may hay biết.

Có lần máy vi tính bị trục trặc do một trong ba thằng mắc dịch kia ham phim xác thịt nên nhấp nhầm đường dẫn chứa virus, Tống Ngạn phải ôm xấp đề cương qua quán net đặng mượn máy tra cứu tài liệu ôn thi. Nghe tiếng bụng gã sôi ùng ục, cậu Út liền đẩy sang một ổ bánh mì Subway nhồi nhân đầy ụ, rồi mỉm miệng cười mà mời: "Nhiều quá, ăn giùm nha?" Khuôn mặt cậu ta rất dễ nhìn, khi cười rộ lên trông hết sức có duyên, chỉ có điều ánh mắt buồn quá, hy vọng sau này gặp lại gã sẽ thấy ánh mắt ấy rạng ngời hơn xưa. Năm đó là thời điểm mà làn sóng Audition nở rộ, cậu Út cũng không ngoại lệ, mỗi bận đợi bạn trai online, cậu lại nghe những bài nhạc nổi tiếng như "Ba ơi, Mẹ ơi" của Vương Dung, "10 minutes" của Lee Hyori,... Thỉnh thoảng lại quay qua nói chuyện phiếm với gã. Vốn không phải là người thích hòa mình vào những "làn sóng mới", nên gã đọc báo thấy vậy hay vậy chứ chẳng mấy quan tâm đến chúng, cũng chính vì lẽ đó mà hai người hiếm khi nào lấy trào lưu đương thời làm chủ đề bàn luận.

Cư xá tân thời về đêm sáng choang như ban ngày. Đèn đuốc muôn màu muôn kiểu soi rọi không gian tối tăm. Những bụi hoa dạ hương tỏa làn hương ngòn ngọt, dịu thơm hết sức dễ chịu. Tiếng côn trùng gáy rền rĩ khắp những lùm cây, bụi cỏ; đôi lúc chen vào tiếng ễnh ương kêu oàng oạc. Những băng ghế đá lạnh toát như tảng băng vì thấm đẫm sương khuya. Chiếc xe Mustang tám động cơ của Tống Ngạn dù chạy rất êm nhưng vẫn vô tình phá vỡ khung cảnh yên tĩnh đương có.

Cài cần số về vạch P xong, Tống Ngạn bấm số gọi máy bàn. Không có thằng nào bắt máy hết, gã bèn xuống xe, rồi bước vào thang máy để lên nhà.

"Đinh."

Vẫn chẳng có thằng nào gọi lại, mặt mày Tống Ngạn méo xệch, lòng thầm nghĩ đây ắt hẳn là quả báo vì đã kêu tụi nó là đàn heo.

"Cạch."

- Chồi ôi, tía về... Tía mua gì về cho con dạ? - Lê Đức Hoàng nhảy cẫng lên. Hình như hắn vừa mới tắm xong, nên cơ thể thơm sực mùi xà bông và dầu gội đầu. Phải chi ngày nào cũng có ý thức "bảo vệ môi trường" như thế này thì đỡ quá!

- Mày đói quá hóa sảng rồi hả thằng quỷ? - Trong lòng gã mừng vui vô cùng vì thấy đàn heo bình an vô sự, tuy vậy ngoài miệng vẫn phải chửi vài tiếng cho bõ tức.

Lấy được túi nylon đựng thức ăn xong, Lê Đức Hoàng liền đổi giọng:

- Mày về trễ chút nữa là sang năm làm đám giỗ tao rồi. Bộ quen được "bông hậu" nào hay sao mà về trễ dữ vậy mày?

- Bình đâu?

- Đi gặp Lưu Bang rồi.

Ký vào đầu thằng bạn một cái rõ đau, gã mới vào phòng của Thường Khán Bình tìm hắn.

Thường Khán Bình đương ngồi nơi bàn viết mà đọc sách. Quyển sách ấy mang tựa đề "Tiếng kêu nào bên kia thời tiết" của Du Tử Lê. Bên phải bàn viết để một chồng thư cao ngất, mỗi một bì thư dán một con tem khác nhau về kiểu dáng nhưng đồng kích cỡ.

- Phong thư thứ bảy mươi hai chỉ trong vòng một tháng. - Thường Khán Bình ơ hờ nói. - Phong thư rỗng không.

Ngay từ đầu, Tống Ngạn đã nghi ngờ Francis Châu vẫn còn sống, vì không có lý nào xét nghiệm ADN lại lâu lắc đến thế. Chưa kể tới việc người thanh niên sống dưới mái nhà thờ thuộc Hội Thánh Tin Lành bỗng nhiên dễ dàng tìm thấy và trao trả lại cái tiểu chứa tro cốt của anh Cảnh, không sớm hơn mà cũng chẳng muộn hơn thời điểm này.

- Thằng Công đâu? Mày đừng nói nó làm "Công chúa ngủ trong mùng" nữa nghen? Mới có... Ờ, hì, một giờ sáng rồi...

Thường Khán Bình xoa đầu bạn, cười hiền.

Lê Đức Hoàng bày biện bàn ăn xong, liền gọi mấy thằng bạn xuống ăn khuya, sẵn tiện hát karaoke luôn thể. Hắn dễ nuôi nên món nào thằng bạn mua về đều ăn được hết.

Tống Ngạn vừa hứng đá viên vô từng ly cối, vừa cất giọng hỏi:

- Có tin tức gì lạ không bây?

- Thằng Bình vừa nhận được một bức thư nặc danh... Oáp... - Nguyễn Chí Công chưa kịp nói xong, đã há miệng ngáp dài. Rồi lủi vào nhà vệ sinh súc miệng, rửa mặt và rửa mình rửa mẩy.

- Không tên thì chắc của Vũ Thành An rồi. - Lê Đức Hoàng chen vào.

- Không tên thì chắc là của mày rồi. Mày hát bài nào thì ông nhạc sĩ bài đó không thể nhận ra luôn. - Nguyễn Chí Công tát nhẹ vô cái miệng thích "ăn cơm hớt" của thằng bạn.

- Điển hình như bài "Mộng dưới hoa" do ông Phạm Đình Chương phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của thi sĩ Đinh Hùng á. Mày yếu yếu là hát "Bên suối" thành "Bên suồi" liền. - Thường Khán Bình tuy không rành về nốt nhạc, nhưng dám khẳng định không có nốt nhạc nào "quen" với thằng bạn miệng móm.

Lê Đức Hoàng đã quá quen thuộc mấy cuộc "tổng tiến công" của đám bạn, nên ngậm tăm, coi như không nghe chi hết. Nhưng tiếng cười của thằng bạn răng khểnh khiến hắn tò mò đến độ phải lên tiếng hỏi nguyên nhân:

- Sao tự dưng mày cười như thằng điên vậy?

- Tao nhớ có cha nội bị cố nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 thẳng thừng van xin làm ơn đừng có hát nhạc của cụ nữa. Mày coi chừng mày là thằng thứ hai đó đa.

Tống Ngạn thủng thẳng bình luận góp vui:

- Giọng hát có kỹ thuật cao thường rất khó nghe, như cô Thanh Thúy, cô Thái Thanh, cô Lệ Thu, cô Khánh Ly, cô Phương Dung, cô Bạch Yến, cô Minh Hiếu chẳng hạn, đây là những giọng ca phô diễn nội lực và thể hiện kỹ năng thanh nhạc thượng thừa, chứ không phải là hát để vỗ về hay mơn trớn người nghe như một số ca sĩ cùng thời. Giọng của cô Thanh Thúy là tông trầm ngang với nam giới, nghe thoáng qua như lúc đại hồng chung ngân vang; có thể nói đây là giọng ca độc nhất vô nhị tính tới thời điểm này. Giọng cô Thái Thanh thuộc dạng Kim thuần, nghe lanh lảnh và sắc bén như tiếng kim khí va vào nhau... Còn hát dở là khác, hát dở là nhạc đi đường nhạc mà người đi đường người, lại bày đặt rống riết, gào rú những chỗ không cần thiết, có lúc thều thào như sắp tắt thở, đôi khi còn ráng lết theo tiết tấu của bản nhạc vì bị hụt hơi.

- Sao mày miêu tả giống hệt giọng tao vậy?

- Điểm chung của những người hát dở là hát không rõ lời để che đậy cái sự tệ hại trong giọng ca của mình. - Tống Ngạn tiếp tục.

- Giọng của ca sĩ Anh Tú và ca sĩ Thùy Dương thuộc dạng bị đớt, giọng mỏng, nhưng lúc họ cất tiếng ca mày vẫn nghe rõ từng lời, từng chữ trong bài. Chẳng những thế, dù mang hai khuyết điểm này, giọng của họ vẫn rất hay và hết sức tuyệt vời. Cô Thùy Dương được mệnh danh là "Thiên thần buồn", còn chú Anh Tú thì được gọi là "Chàng lãng tử bất cần đời". - Thường Khán Bình nói đoạn, ngoắc mấy đứa bạn nhanh theo mình vào phòng hát karaoke để nhập tiệc.

- Trời, bữa hổm tao nghe cái bài "Bão hòa" của đôi song ca nào đó xong tao tưởng tao mới đi vô vùng bão táp nào không. - Lê Đức Hoàng rùng mình ớn lạnh.

Tống Ngạn thở dài:

- Không phải ai cũng có khả năng phổ nhạc từ thơ đâu mà bon chen. Có tài thì đáng mừng, còn không có tài thì chẳng khác nào tự tay bôi tro trét trấu lên tác phẩm của mình. Trên đời này được mấy người như thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, Nguyễn Đình Toàn, Du Tử Lê,... tự viết thơ rồi phổ nhạc luôn chớ. Thời nay có một số người chẳng biết cóc khô gì về nhạc lý, văn chương cũng mịt mùng, rối rắm như đám dây leo, vậy mà cũng tự xưng là ca sĩ kiêm nhạc sĩ. Trời ơi, hát bài nào cũng ngang phè như giọng điệu của mấy kẻ chuyên quỵt nợ.

Thường Khán Bình nói:

- Chứ có giọng hay hơi hám đâu mà sáng tác mấy bài khó hát? Như vợ chồng Lê Uyên - Phương đấy, nhờ tiếng hát của cô Lê Uyên rất hay mà bác Phương thoải mái viết lời và soạn nhạc, vì không bị gò bó về phần sáng tác do phải nương theo giọng ca của vợ.

Mãi đến nửa tiếng sau, Nguyễn Chí Công mới vào phòng hát karaoke. Y trổ tài làm món mỳ trộn muối ớt và pha cho mỗi đứa một ly cocktail Mojito.

Hát hò tới gần tảng sáng, cả bọn mới dừng cuộc chơi và ráp nhau đi ngủ. Tô, chén, dĩa dơ thì để chiều mai hẵng dẹp. Giờ thì đánh một giấc cái đã.

...

Qua ngày hôm sau, Thường Khán Bình lái xe tới đón hai anh em họ Cổ tới nhà thầy mạ ăn đám giỗ anh Cả. Dù hắn đã cố nài nỉ, nhưng ba má của họ cáo lỗi không tham dự, viện rằng ở nhà có việc cần giải quyết gấp.

Chiếc xe Mustang có mui trần hứng từng đợt gió lộng mát rượi, nhưng vẫn đượm hơi thở oi bức của nắng hè. Trời lại muốn chuyển mưa, nên không khí càng nóng nực tợn.

- Có ai muốn nghe bài nhạc nào không?

Cổ Tây Tuyết ngước đôi mắt lá răm nhìn mảnh trời đầy mây mù mịt:

- "Em là gái Trời bắt xấu", một sáng tác của nhà thơ Lệ Khánh, về sau được đôi nhạc sĩ Thanh Ngọc và Hồng Lâm phổ thành tình khúc.

- Cô Tuyết đâu có xấu, dễ thương là đằng khác. - Thường Khán Bình mỉm miệng cười. Đáp lại lời khen thật tình của hắn là một tràng cười giòn tan của cô cảnh sát hớt đầu đinh, và cái liếc mắt sắc lẻm của Cổ Chinh Sơn.

Nhận thấy thái độ "hình sự" của anh trai cô ấy, Thường Khán Bình bèn bật bản nhạc mà cô Tuyết yêu cầu để giả lả qua chuyện.

- Tôi rẽ vào đường Cao Bá Quát đổ xăng cái nghen?

Hai anh em gật nhẹ đầu. Họ biết anh chàng này sợ họ hiểu lầm mình có ý xấu nên phải thông báo lộ trình trước, đợi hai người đồng ý rồi mới dám chạy theo hướng đó.

Cây xăng chỉ có hai mống khách hàng, một là hắn và hai là người đàn ông chạy chiếc xe Lamborghini hai màu đen - bạc.

Nhìn người đàn ông lịch lãm đương đứng mua gói thuốc lá bình dân mà hắn chợt thấy gai mắt, nếu nói do thói ghen ăn ghét ở mà ra thì không đúng, mà là bởi vì một cơn hờn dỗi vu vơ bỗng đâu trỗi dậy. Hắn có dự cảm không mấy tốt lành.

- A, chào cô Tuyết. Tôi, Liêu Hồng, anh của Đỗ Mạn Kỳ, đã từng gặp gỡ cô cách đây hơn nửa năm.

Xa xôi quá, cô chẳng thể nhớ ra nổi...

- Út Mật.

- Dạ?

- Coi chừng mình rề rà làm trễ giờ của gia đình anh Bình thì kỳ cục lắm.

- Dạ, em nghe rồi.

Trước khi chia tay nhau, Đỗ Liêu Hồng dúi vào tay Cổ Tây Tuyết một xấp phiếu giảm giá của nhà hàng mới khai trương, rồi chúc cô vài câu tốt lành, nhưng không xin số điện thoại của cô.

- Giấy tờ gì nhiều dữ vậy? - Cổ Chinh Sơn cau mày.

Thường Khán Bình ngó thấy tên nhà hàng thì thoáng giật mình, vì thằng Ngạn đã mua đồ ăn ở điểm bán này khuya hai hôm trước.

- Anh Bình lấy năm tấm phiếu nghen? - Cổ Tây Tuyết soạn ra năm tờ phiếu giảm giá hậu hĩ nhất tặng cho Thường Khán Bình.

- Cảm... cảm ơn cô Tuyết.

oOo

Đặng Xương Tuyết bắt chuyến xe đò về miền Tây để làm một cuộc phỏng vấn pháp y Trần Cảnh Chiêu. Anh là ký giả tự do, không bị ràng buộc bởi bất cứ tòa soạn nào nên cứ mặc sức "thi hành" theo ý mình. Vui vẻ gì khi phải làm con bò cho người ta chăn dắt.

Tình cờ, anh gặp một ông cụ họ Tôn Thất đương ngồi đọc báo trong quán cóc ven đường. Anh và cụ bàn luận thế sự hết sức vui vẻ và hào hứng. Tới sáu giờ tối chuyến xe mới tới, nên anh còn dư tận bảy tiếng đồng hồ ngồi chơi xơi nước với ông cụ hoàng tộc.

- Học Sử mà toàn dựa trên sách giáo khoa và tài liệu mà thầy cô đưa thì muôn đời phiến diện và thiển cận. Cũng như về mặt Chính tri ̣vậy, chỉ có trường đời dạy anh là chuẩn xác nhất, chứ còn trường học thì các giảng viên vì sợ "đụng chạm" nên toàn đưa gì dạy nấy.

- Dạ phải, con cũng nghĩ thế.

- Có nhiều người hay tâng bốc ông này giỏi, ông kia tài, nhưng khi tôi hỏi dẫn chứng đâu thì toàn đưa mấy cái nguồn do phe của ông đó soạn ra. Chẳng khác nào anh nấu ăn xong rồi đưa người nhà nếm thử vậy, trước mặt quan khách họ đâu có thể thẳng thừng chê anh nấu dở được. Cho nên mỗi lần tôi đọc được phần tranh biện như thế, tôi coi như nó không hề tồn tại và vô giá trị. Nếu muốn tôi tin, đừng đưa những bài viết, hãy đưa tôi đoạn phim quay về người đó, tôi sẽ tự khắc biết người đó có thực tài hay là không. Bởi sắc diện và phong thái của người đó luôn phản ảnh chính xác nội tâm và tư tưởng người đó. Một kẻ gian giảo, luồn cúi sẽ không bao giờ dám nhìn thẳng vào mặt người khác. Kẻ tục tằn thì khẩu hình sẽ nhọn hoắt như mũi khoan. Người hiền trí chỉ cười mỗi bận nghe thấy lời đơm đặt hay trái tai gai mắt.

- Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh nếu không có tài cán thực sự thì đã không được NASA mời vào làm việc, cũng chẳng thể biên soạn những đầu sách thuộc thể loại dành cho người có trí óc thông minh tột đỉnh. Cái đó là nguồn dẫn chứng rõ ràng, rành mạch, và không do phe phái nào soạn ra để đánh bóng và tô vẽ. Và như vậy mới là phần biện luận đáng để vào mắt.

Cụ vỗ đùi một cái, rồi tiếp lời anh:

- Giờ anh nói anh là đầu bếp ba sao Michelin, mà anh không biết Rosemary và lá hương thảo là một, thì có nghĩa là anh khoác lác rồi. Cũng như anh tự xưng mình làm phi công vậy, kích cỡ của một cái máy bay không rành, tải trọng cũng không biết, thì tôi có quyền nghi ngờ anh nói dóc về nghề nghiệp hiện tại của mình.

Trên đài phát tin tức về đề đốc Tăng Viên Bách, ông cụ nghe xong tức cảnh mà vuột miệng bình phẩm:

- Chủ trước để cho giặc vô nhà, cái miệng anh bô bô tôi là người tài giỏi, nhưng hễ người nhà kêu anh đuổi thằng giặc ra khỏi nhà, thì anh lại lấy cớ do ông chủ trước để giặc vô nhà nên ổng phải là người giải quyết. Vậy thì lời nói của anh có đi đôi với hành động hay không? Anh suốt ngày chửi bới chủ trước là đồ bất tài, phần mình thì khoác lác chiến công vẻ vang, nhưng hễ gặp thằng giặc lại xoen xoét "Dĩ hòa vi quý". Tôi không chơi với thứ "Sao đổi ngôi".

- Dạ, có những người suốt ngày chỉ nhắc đến sự kiện năm 74, mà không chịu nhớ thêm năm 88, ghét một bên và "cố tình" quên một bên. Học Sử như vậy coi như tiêu.

- Với những kẻ học Sử phiến diện và thiển cận như vậy, cậu nên lấy làm tội nghiệp họ vì không dám nhìn thẳng vào Sự Thật, suốt đời chỉ biết bươi móc bên mình ghét và bưng bô bên mình thích. Cái gì cũng có hai mặt, không chịu hiểu thì suốt kiếp cũng chỉ là công cụ để người ta lợi dụng tuyên truyền nhằm bảo vệ chế độ và địa vị. Tôi nói thật, ngay cả bên tôi thích, tôi vẫn phân tích cặn kẽ những điểm sai lầm và yếu kém của họ để rút ra bài học cho mình, chứ không phải là toàn tô son trát phấn lên mặt họ đâu. Đương nhiên, chỉ có những người nào tôi quý lắm, tôi mới thổ lộ điều ấy ra, chứ còn cái hạng "đi hai hàng, sống hai mặt, làm chuyện hai mang" thì xin biến trước khi tôi ba máu sáu cơn xua chó dữ ra đuổi.

Đặng Xương Tuyết khơi gợi chủ đề "nhạy cảm" khác:

- Ai cho phép Tăng - Ni bàn việc Chính trị? Thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, vương quốc của cha Ngài ấy bị xâm lược, người thân trong dòng họ mới khẩn khoản, van nài Ngài ấy lấy danh nghĩa thái tử Tất Đạt Đa mà hiệu triệu quần chúng đánh giặc. Nhưng Ngài ấy đã lắc đầu từ chối, và nói rằng đấy là quy luật Nhân Quả mà dòng họ Thích Ca phải gánh. Cái quy luật Nhân Quả ấy lại bắt nguồn từ một tích truyện từ rất xưa, mà bất cứ người nào thật tâm theo đạo Phật vì tin kính Đấng Thế Tôn đều biết, còn cái đám buôn Thần bán Thánh nghe nói tới thì sẽ giãy đành đạch lên vì sợ bị mất khách cúng dường.

Cụ lặng thinh nghe cậu ký giả Sương Tuyết giải bày khuất mắc.

- Hồi Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, có một vị tôn giả tên là Mục Kiền Liên rất giỏi phép thuật, vốn sẵn tính bộc trực, ông cứ hễ thấy ai là người xấu thì sẽ bày phép để răn đe, khuyến hóa người đó về đường ngay. Nhưng việc làm của ông đã khiến cho Đức Phật hết sức buồn lòng, bởi Ngài không chấp nhận chuyện chúng sanh theo đạo Phật là vì khiếp sợ và kiêng nể thuật thần thông. Do đó mà Ngài thường xuyên nhắc nhở tôn giả không được dụng tới phép thuật. Cho tới một ngày nọ, tôn giả cùng một người bạn đồng đạo đi ngang qua một dinh thự nguy nga, lộng lẫy thì thấy một ông trưởng giả đang bắc loa thách rằng ai mà lấy được cái tô đẽo từ giống gỗ quý treo trên cây sào thì sẽ dẫn gia quyến đến xin làm tín đồ. Tôn giả toan đi luôn về tịnh xá, chợt nghe có kẻ nói xấu Đấng Thế Tôn, bèn mặc kệ lời can gián của người bạn đồng đạo mà thi triển phép thuật, ông bay lên đỉnh ngọn sào lấy cái tô xuống. Trở về tịnh xá, tôn giả thuật lại từ đầu đến đuôi câu chuyện trên và cung kính dâng cái tô làm từ gỗ quý cho Đấng Thế Tôn. Sau khi nghe xong câu chuyện, Đức Phật đã đập vỡ cái tô, rồi lắc đầu nhìn tôn giả đầy buồn bã.

Cụ chắt lưỡi một cái, rồi hớp một ngụm cà-phê đen đá.

- Chuyện này cháu đọc trong sách "Sự tích Đức Phật Thích Ca" do cư sĩ Minh Thiện - Trần Hữu Danh biên soạn và tổng hợp lại từ nhiều nguồn sách về Phật Giáo trên thế giới. Đương nhiên có vài biến thể khác trong tích truyện này, nhưng tựu trung đều thể hiện rằng Đấng Thế Tôn không chấp nhận Tăng - Ni thi triển thần thông và sử dụng những vật dụng xa hoa, đắt đỏ trong đời sống tu tập của mình.

Nhấp một ngụm nước tăng lực cho đỡ khô cổ, anh mới trình bày tiếp:

- Cho nên, Phật Giáo nguyên thủy không hề chiêu mộ tín đồ hay ép buộc cúng dường để được hưởng này, hưởng nọ. Bất kỳ ai theo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều vì tin kính, giác ngộ mà theo, chớ không phải là do muốn lên Trời làm Tiên, làm Phật gì sất. Còn thời nay, buồn chuyện gia đình cũng đi tu, thiếu nợ cũng đi tu, làm biếng cũng vác mặt đi tu,... biến cửa chùa thành nơi buôn Thần bán Thánh, phá nát giáo lý mà Đấng Thế Tôn đã để lại trước khi nhập cõi Niết Bàn. Hồi Ngài ấy còn tại thế, bất cứ ai muốn gia nhập Tăng đoàn đều phải kinh qua ba năm thử thách, xem coi họ có dứt lòng trần thực sự không, hay là vì nghịch cảnh đang vướng mắc mà trốn đời đi tu. Đấng Thế Tôn đã từng nói rằng, nếu dùng cách đi tu để trốn tránh Nghiệp Quả, thì kiếp sau vẫn phải gánh chịu chứ không thoát tội nổi. Điển hình như Ngài ấy cũng phải gánh chịu quả báo từ một số tiền kiếp xa xôi, và Ngài ấy dùng cái tâm từ bi và cặp mắt bình lặng để đón nhận cũng như giải quyết tất cả.

Tiếng kèn xe của chuyến xe Sài Gòn - Bạc Liêu vang lên mấy lần, như thể muốn báo hiệu cho hành khách biết sắp tới giờ khởi hành.

Vội vàng từ giã cụ ông hoàng tộc, Đặng Xương Tuyết quải ba-lô trên vai, rồi chạy lại quầy thu ngân kêu tính tiền cho mình và cụ ông, sau đó cấp tốc leo lên chiếc xe vẽ hoa văn mai vàng dọc hai bên thân xe.

Giọng hát của ca sĩ Trúc Mai trong bài "Về miền Tây" mang đến không khí tươi vui cho chiếc xe đò liên tỉnh. Về sau ca sĩ Tuấn Vũ có hát lại nhạc phẩm trên với hai phiên bản khác nhau: Một bản hát riêng và một bản song ca với ca sĩ Sơn Ca; rồi từ đó đến nay bản nhạc "biệt tích" hẳn. Nhạc phẩm này được nhạc sĩ Y Vân phổ nhạc từ bài thơ của thi sĩ Văn Thế Bảo:

"Về miền Tây, có ai về miền Tây

Lúa mùa thơm, thơm mãi

Dừa xanh nghiêng chênh chếch

Cá ngược dòng sông này..."

Một bà cụ chợt trề môi nói với bà bạn:

- Có những kẻ chưa hề sống ở miền Tây, nhưng đụng đâu cũng chê con gái miền Tây lười chảy thây, con trai thì toàn nhậu nhẹt. Chắc họ chưa từng nhìn thấy cái cảnh dân quê tôi đốn chuối, hái dừa, mần ruộng, trồng cây ăn trái và cây hoa màu. Nhứt là ở miệt Sa Đéc, để làm ra được cọng hủ tíu, bà con phải thức từ lúc khuya lắc khuya lơ mới kịp xay bột, đổ khuôn và phơi bánh. Xuống tới miệt Kiến Hòa, anh sẽ thấy cái cảnh bà con ngồi từ sớm tới tối mịt để lột vỏ dừa kiếm sống, chưa kể đến là công việc trồng dừa và ép chuối. Qua tới tận Vĩnh Long, bỏ ra một ngày đi rồi anh sẽ thấy bà con làm chiếu cực khổ thế nào. Về Sóc Trăng dăm hôm, nếm vị ngọt thơm của trái thốt nốt, anh mới thương cho bà con nơi đây dầm mưa dãi năng chăm bẵm cây thốt nốt ra sao. Tới Tây Ninh thử xem, món muối tôm Tây Ninh ngon trứ danh cả nước đấy, biết bao nhiêu công sức đổ vào đấy. Vòng lại Bạc Liêu quê tôi, bà con đã miệt mài "hóa phép" cho giống nhãn bình dân thành rượu uống và cần mẫn chế biến mắm làm kế sinh nhai... Bao nhiêu đây ví dụ đã đủ cho đám thiển cận biết mắc cỡ vì đã vu khống người miền Tây chưa?

Chiếc xe vẫn chưa kín khách, nên bác tài và cậu lơ xe nán lại thêm một tiếng để chở cho đủ số.

Thấy ghế bên cạnh bà bác hãy còn trống, Đặng Xương Tuyết bèn ngỏ lời phỏng vấn bà bác, thím ấy liền gật đầu ngay tắp lự, rồi thuyết trình luôn:

- Tôi thấy thương hại cho những kẻ chỉ biết nhìn đời qua lăng kính phiến diện. Suốt ngày chỉ biết ru rú ở đáy giếng, chõ hai con mắt nông cạn lên nhìn vòm trời cao xanh, và chụp mũ bất kỳ ai nói trái ý mình.

Chỉ cần dạo một vòng chợ quê nơi miền Tây sông nước, không khó để bắt gặp những người phụ nữ trẻ tuổi đội nón lá, ăn mặc tềnh toàng bán từng cái bánh dân dã nhằm kiếm tiền mưu sinh. Một mâm bánh của họ hiếm khi nào chỉ bán ba loại, thường thì phải từ năm đến sáu loại trở lên để khách quen ngán thứ này thì mua thứ khác ăn. Mà một mâm bánh như vậy làm ra đâu có dễ. Bà con đa số dùng công nghệ thủ công từ đó tới giờ, chớ chẳng sắm sửa máy móc tân tiến, do ngặt không có vốn thủ thân.

Đi khắp miệt Nam Kỳ Lục Tỉnh, không hề khó khi bắt gặp những người thanh niên đi làm hồ, mần ruộng, trồng hoa màu, xay bột làm sợi hủ tíu hay bánh trái, nhuộm chiếu, bồi đắp mương nước trong vườn để thả cá, hay thậm chí là tự mở quán ăn rồi đứng nấu đứng bán luôn.

- Nếu như họ biện minh rằng mình chỉ góp ý chứ không phải vu khống thì thím nghĩ ra sao?

Thím làm ngay một "tăng":

- Giống như anh vào vườn nhà người ta, thay vì góp ý trồng trọt sao cho khu vườn ấy tốt tươi và tăng thêm lợi nhuận, anh lại chỉ săm soi đám cây tàn tạ, rồi bỉ bôi chê người ta dốt người ta ngu, mà quên phứt rằng anh đang nương nhờ bóng mát của cây xanh họ trồng. Thì những kẻ vu khống cho người miền Tây cũng vậy, chúng quên phứt rằng nếu bà con ở đây tệ hại thì tại sao sản lượng lúa và hoa màu luôn nằm ở mức cao nhứt cả nước? Đừng viện cớ là nhờ có dòng phù sa bồi đắp mà nền nông nghiệp ở đây trù phú đến thế. Những kẻ đó có tới tận nơi đâu mà thấy bà con ngày ngày móc mương, bồi ruộng, cải thiện từng mẫu đất cằn, hứng từng lu nước mưa phòng hạn, tát đìa khai thông kênh rạch,... Tới nỗi tay chân nứt nẻ, da sạm, về già bị bệnh đau xương cốt và phong thấp nhiều không sao kể xiết.

Uống hết nửa chai nước suối, thím mới nói tiếp:

- Nông sản bán ra thì bị thương lái chèn ép giá cả. Gặp lúc mất mùa, đất cằn khô hạn, gia đình đổ nợ, một số người con gái miền Tây phải bán thân để cứu lấy gia đình. Rồi anh nghĩ thế nào khi vu khống họ là hạng đổ đốn và ham tiền nên mới làm gái và lấy chồng ngoại quốc? Rất nhiều người thương tiếc cho Thúy Kiều, nhưng lại mạt sát và miệt thị những bóng hồng sa cơ lỡ vận chịu phận buôn phấn bán hương như thế. Cái tiêu chuẩn kép ấy khiến tôi cười khinh họ.

- Còn những tin trên báo thì sao ạ?

- Toàn là lựa những tụ điểm ăn chơi trong vùng, rồi phán gái miền Tây làm đ* điếm, có khác nào anh vào vườn sầu riêng rồi chê sao không có trái nho không? Còn thêm một trường hợp nữa, anh gặp một người con gái miền Tây không đứng đắn, rồi anh quy chụp cả cái miệt của họ để thỏa mãn cơn giận của mình, vậy anh là hạng người gì? Và tôi nói luôn, dân xứ tôi, dẫu cha mẹ tệ bạc ra sao, con cái vẫn dốc lòng báo hiếu và phụng dưỡng họ, chỉ có một số cá biệt mới bất hiếu thôi. Ai có thành kiến với con gái miền Tây thì đừng cưới hỏi hay hẹn hò, dân xứ tôi cũng không có cần đâu mà bày đặt làm giá.

- Vậy theo thím định nghĩa "Đất độc" là như thế nào?

- Đi tới đâu cũng thấy dân tình chửi thề thay cho một lời chào lịch sự, lái xe thì toàn là vi phạm luật lệ giao thông, rác rến vương vãi khắp nơi, lúc nào cũng canh me làm tiền khách thập phương, vô quán ăn trả tiền mà đối xử với khách như con ghẻ, dân cư rặt một phường "Miệng Nam Mô, bụng một bồ dao găm" thì đó mới là "đất độc", bởi cái xấu chiếm đa số. À, còn nữa, tới lúc có người góp ý và phê bình, thay vì lắng nghe và tiếp thu để sửa chữa, thì vào Facebook của người bình phẩm xem nơi ở, rồi sau đó tra Google về những tệ nạn ở vùng đất mà người bình phẩm đương sinh sống và làm việc để đem ra làm đề tài chống chế, khốn nạn hơn nữa là vu khống bà con ở đấy. Ví dụ như: Tôi thấy thành phố H có ổ bài bạc, tôi mới nhắc mọi người tránh xa tứ đổ tường, thì có một thằng cha sống ở đó nhảy cẫng lên và nói: "Ối, tưởng gì, ở miền Tây đ* điếm không chẳng lo, lo cho chỗ của bố." Cái đó gọi là vu khống một cách trắng trợn và hết sức dóc láo. Và tệ hơn nữa, ấy là cái thói "thấy sai mà khoái cãi bướng", một Đất Nước sẽ tanh banh nếu người dân không dám thừa nhận khuyết điểm và lỗi sai nơi mình, suốt ngày chỉ chực xem nước ngoài có tệ nạn gì không thì sẽ lấy đó làm cái cớ để không sửa chữa lỗi lầm và lấp liếm khuyết điểm.

Con trai của bà bác đã tới, nên Đặng Xương Tuyết bèn trở về chỗ ngồi của mình. Tưởng ai xa lạ, hóa ra là dân biểu từng tốt nghiệp thủ khoa ngành Luật năm rồi. Hai mẹ con ngồi ăn bánh mì, uống nước ngọt và trò chuyện rôm rả với nhau. Cậu ấy thừa kế cái gen bộc trực và ăn ngay nói thẳng của mẹ mình, nên chưa kịp trở thành nghị viên mà đã "sở hữu" vô số kẻ thù.

- Anh là ký giả Sương Tuyết phải không? Lên đây ngồi với mẹ con tôi đi.

Đặng Xương Tuyết bèn lên ngồi kế cạnh anh ta.

- Tôi muốn biết lý do tại sao mà anh lại chọn con đường chông gai như tôi... - Cậu dân biểu cười buồn.

- Tôi muốn người Việt mình sát cánh bên nhau, vươn đôi cánh nhân bản bay đi khắp phương trời, làm rạng danh dòng giống Lạc Hồng. Tôi ngó nghiêng ngó ngang ngó ngửa ngó dọc mà chẳng thấy một ai cùng chung chí hướng, nên quyết đóng cửa lòng và treo biển "Miễn tiếp khách".

- Anh thấy Tổ quốc mình ra sao?

- Ở Đất Nước tôi có hai dạng chụp mũ, một là chụp mũ "Phản động", hai là chụp mũ "Lậm QT". Dạng chụp mũ thứ Nhất gây nguy hiểm cho Tổ quốc hơn dạng thứ Hai, bởi nó khiến cho người khác e sợ khi nói lên chính kiến, dần dần nhà sạch hay dơ chẳng ai thèm quét hay nhổ cỏ, chỉ để tránh cho khỏi mang tiếng "phản động". Còn dạng chụp mũ thứ Hai nói lên một thực trạng rất đáng buồn rằng, một số người hiện nay bị hỏng hóc kiến thức về ngữ vựng tiếng Việt quá lớn.

- Cái vụ "lậm QT" gì đó tôi thành thật không hiểu... Mong anh giải thích rõ cho.

- Hồi em gái tôi còn sống, nó hỏi chữ "Cái chi" là tiếng địa phương hả? Tôi nghe xong lên tăng-xông luôn. "Cái chi" là một chữ thường được sử dụng trong ngữ cảnh lịch sự, hoặc dùng xen kẽ với "Cái gì" để tránh trùng chữ trong một câu hoặc một đoạn văn. Ví dụ như anh không biết cái túi đồ mẹ để lên bàn chứa vật gì, anh mới hỏi: "Mẹ ơi, cái chi trong đây thế ạ?"

- Rồi rốt cuộc sao?

- Tôi dẫn nó vào "Tàng kinh các", kêu nó đọc hết toàn bộ sách của Hồ Biểu Chánh, Huỳnh Tịnh Của, Vương Hồng Sển, Bùi Giáng, Du Tử Lê, Võ Phiến, Nguyễn Hiến Lê,... thì sẽ biết tôi có lậm QT hay không. Các cụ không những giỏi chữ Nho, Nôm, mà còn làu thông kinh sử và biết luôn tiếng Pháp nữa. Ngoài ra, một số còn biết cả tiếng Anh và tiếng Nga. Tôi chưa thấy ai trong số bậc hậu sinh chúng ta có học thức và đạo đức nghề nghiệp bằng các cụ ấy.

Cậu dân biểu ra hiệu cho anh nói tiếp.

- Việc dùng sai chữ rất nhiều, nói cụ tỷ như chữ "Đề xuất" chẳng hạn, đã "Đề xuất" mang ý nghĩa tương tự với "Đề ra" rồi, vậy mà vẫn có người dùng chữ hết sức thừa thãi là "Đề xuất ra". Một là "Đề xuất" hoặc hai là "Đề ra", chứ không có chuyện "Đề xuất ra".

- Có thể là thuận miệng chăng?

- Phải, tôi cũng nghĩ thế. Trong viết Văn cũng vậy, rất nhiều lần tôi dùng thừa hoặc sai chữ, và mỗi lần phát hiện ra chỗ sai, ngoài việc chỉnh sửa lại, tôi còn thường đi nói với bạn đọc của mình để cùng nhau khắc phục những cách sử dụng từ ngữ không hợp lý.

- Có tốn thời giờ hay công sức không?

- Nếu anh đã làm thì đừng kể lể, đó là một quy tắc khi anh đã trót gánh cái nghiệp viết lách trên vai. Và nếu anh sợ chết hay tù đày thì đừng chọn cái nghiệp này, bởi đã có rất nhiều người vì nó mà phải chịu kiếp sống khốn đốn rồi.

- Còn anh?

- Tôi à? Tôi mà sợ chết hay tù đày thì đã chẳng viết ra những thứ này rồi. Tôi đã nói đi nói lại rất nhiều lần, rằng tôi muốn kế thừa hoài bão còn dang dở của cụ Nguyễn Thái Học, cụ Phan Bội Châu, cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu,... Tôi có rất nhiều con đường sáng sủa mà "an toàn" hơn, nhưng tôi vẫn ở lại với nơi "rừng thiêng nước độc" này. Âu cũng là cái nghiệp, cái phần số của tôi.

Bác tài xế đang nhịp ngón trỏ trên vô-lăng theo giai điệu bài hát "Im lặng thở dài" của cô Khánh Ly, một sáng tác của cụ Trịnh Công Sơn.

- Anh có thấy mình nặng lời và nói quá thẳng không?

- Cụ Hồ Biểu Chánh và cụ Phạm Quỳnh còn nặng lời và nói quá thẳng hơn tôi gấp một vạn lần.

- Vậy anh nghĩ sao về văn học xứ mình?

- Văn học xứ mình không khởi sắc được một phần là do người viết không dám bứt phá, suốt ngày chỉ biết loanh quanh các chủ đề thường gặp và "an toàn". Anh đọc sách của Stephen King sẽ thấy những vấn nạn kỳ thị LBGT và phân biệt chủng tộc, nhà văn Thôn Thượng Xuân Thụ lại viết về những nỗi buồn chiến tranh, sự lệch lạc tình dục của giới trẻ Nhật Bản hiện nay, và những con người đang loay hoay đi tìm bản ngã và mục đích sống, trinh thám gia đại tài Keigo Higashino thường lấy những chủ đề xoay quanh các tệ nạn, tội ác và nỗi trăn trở về tương lai đất nước của cư dân xứ Mặt trời mọc. Còn nước mình thì sao? Những nhà văn được thế giới biết tên và ghi nhận tài năng anh đếm được bao nhiêu người?

Cậu dân biểu kể ra những cái tên quen thuộc. Nghe xong, Đặng Xương Tuyết lắc đầu mà cười buồn:

- Đa số những nhà văn đạt đủ hai tiêu chí mà tôi nêu trên đều sinh sống ở nước ngoài, và mang quốc tịch nước sở tại luôn, chứ chẳng có một mống nào là người Việt rặt. Vậy thì anh nên tự hỏi do đâu và vì nguyên nhân nào họ lại chỉ thành công khi ở đất khách quê người?

Chiếc xe bắt đầu lăn bánh. Tiếng bánh xe lăn trên con đường đất gồ ghề vọng vào tai Đặng Xương Tuyết như một bản đàn lạc nhịp. Bác tài xế rẽ phải, đặng chạy lên xa lộ miền Đông, thẳng tiến về miệt Bạc Liêu yên ả.

- Viết cái gì anh cũng cho là "Phản động" và "Chống chế độ" thì làm sao mà họ dám sáng tạo hình tượng nhân vật. Lấy một ví dụ về series bác sĩ ăn thịt người Hannibal, chẳng lẽ ông tác giả cũng ăn thịt người nên mới viết rành rẽ và chân thật như vậy à? Rồi series Thám tử Sherlock Holmes nữa, bộ ông tác giả là sát thủ giết người hàng loạt nên mới có thể dựng lên một bộ tiểu thuyết sống động về nghề điều tra - phá án đến thế sao? Tất cả chỉ xuất phát từ trí tưởng tượng phong phú và sự tìm tòi về mặt kiến thức của họ mà thôi.

Nói đoạn, Đặng Xương Tuyết buông xuống một tiếng thở dài nặng như chì. Từng lời ca trong nhạc phẩm "Tôi cố bám lấy Đất Nước tôi" của Nguyễn Đình Toàn chợt hiện về nơi tâm trí anh.

Nhờ có tuyến xa lộ mà thời gian di chuyển đã được rút ngắn hơn phân nửa, chỉ tốn không quá ba giờ đồng hồ là Đặng Xương Tuyết có mặt ở bến xe Bạc Liêu. Nhờ cố tổng thống Bàng Đông Quân đốc thúc mà miền Nam đâu đâu cũng có đường cao tốc và cầu dây văng bền đẹp. Bây giờ ông ấy giao lại công việc xây dựng hệ thống tàu điện ngầm và hỏa xa trên cả nước cho Hác Đăng Khánh, và ông chú đã thực hiện được một phần ba nhiệm vụ được giao phó.

Đặng Xương Tuyết đang xem bản đồ trên màn hình ở một góc hành lang, chợt nghe có tiếng người kêu mình đầy gấp gáp. Anh vội vàng xoay người lại tìm kiếm.

Pháp y Trần Cảnh Chiêu ăn mặc y chang pháp sư Trần Phiêu Diêu, chỉ thiếu cây phất trần nữa là đủ bộ. Khuôn mặt anh ta già dặn hơn tuổi thật rất nhiều, nơi vầng trán sáng sủa đã in sâu mấy nếp nhăn. Đôi mắt anh ta sáng rỡ lạ thường, nhìn vào có cảm tưởng luôn luôn khỏe mạnh và tinh thần không bao giờ vơi đi sự sung mãn, tươi tắn.

- Tôi sợ anh bị lạc đường nên vừa tan làm liền tới đây rước anh về nhà. Hì, hơi hôi xíu. - Trần Cảnh Chiêu giơ cánh tay lên ngửi ngửi, rồi khịt mũi, nhăn mặt mà nói. - Hình như "quá" chớ hổng phải "hơi"...

Đặng Xương Tuyết lắc đầu, cười miệng méo xệch.

Hai người thanh niên đèo nhau trên chiếc xe Air Blake xanh dương qua thời. Ấy thế mà con đường vắng vẻ, heo hút vẫn khiến họ cảm thấy sởn gai ốc. Đi mất nửa giờ đồng hồ cả hai mới về tới nhà. Đèn đuốc ngoài sân sáng trưng, bà nội đội mũ ni ngồi chờ cháu trai trước hàng ba của căn nhà ba gian hai chái cổ kính, dáng hình bà hiền hòa như bụt măng, tai nấm trong vườn nhà. Nội đương nghe bài "Chiếc áo bà ba" do đôi song ca Tuấn Vũ - Thanh Tuyền trình bày; không biết vô tình hay cố ý, phần lời của bài hát đã bị chỉnh sửa, và mỗi lần nội muốn tìm nghe, nội lại dặn con cháu lưu ý điều này vì không muốn ủng hộ cho những kẻ tự tiện sửa lời, và nhứt là chêm những chữ không hề đúng với tư tưởng của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, ông là một trong những người tới chết vẫn giữ vững tư tưởng và lập trường của mình. Lời gốc của bài ấy như sau:

"... Nhớ chiếc xuồng xưa năm nào trên bến cũ

Thương lắm câu hò kêu gọi khách sang sông

Áo trắng xuồng đưa mắt cười em khẽ gọi

Người thương ơi em vẫn đợi chờ..."

Về sau đã bị ai đó tự ý sửa câu từ dựa trên lời Hai của bản nhạc "Chiếc áo bà ba":

"... Lớp lớp tàu Tây muôn đời im tiếng thở

Súng thép hàng hàng rữa mục đáy sông sâu

Với chiếc thuyền con, gái cùng trai phá giặc

Hậu Giang ơi chiến công còn tuyệt vời..."

Và đây mới là lời Hai do ca sĩ kiêm nhạc sĩ Nhật Trường - Trần Thiện Thanh sáng tác; ông song ca lời này với cô Hương Lan:

"... Chiếc áo màu xanh len từng con sóng bạc

Lóng lánh mái chèo của đồng ánh dương châu

Sóng vỗ xuồng đưa tiếng hò qua bến đợi

Hậu Giang ơi dấu yêu còn tuyệt vời..."

"Tin..."

- Nội ơi, con về rồi!

Bà nội của viên pháp y mừng rỡ đón chào Đặng Xương Tuyết. Nội đon đả nắm tay dẫn anh ta và cháu trai xuống nhà sau, rồi trỏ vào buồng tắm mà biểu:

- Tắm rửa lẹ lên mấy đứa, rồi vô ăn lẩu cháo cua đồng, hột vịt lộn cho nó nóng.

Trần Cảnh Chiêu dẫn Đặng Xương Tuyết vào khách phòng, trong đó có sẵn buồng tắm và cầu tiêu máy, khỏi sợ phiền phức hay chung đụng với chủ nhà. Bộ ngựa thay cho giường ngủ kiểu cách, nằm rất mát lưng nhưng cũng dễ gây nhức mình nhức mẩy với những người vốn quen nệm êm chăn ấm. Sào đồ thay cho tủ quần áo cồng kềnh. Và nền nhà lát gạch Tàu thay cho gạch men hay ván gỗ tân thời. Tuy vậy, chủ nhà vẫn "chịu chơi" lắp dàn máy lạnh tám ngựa và quạt thông hơi cho gian phòng đượm nét hoài cổ này.

- Tối nay tôi ngủ với anh. - Vừa nói, Trần Cảnh Chiêu vừa khởi động máy lạnh. Một tiếng "Tít" kéo dài mấy mươi giây rồi ngưng bặt. Âm thanh máy lạnh chạy ro ro vang lên giữa gian phòng im ắng nghe như hơi thở thời gian.

Đặng Xương Tuyết lấy quần áo trong ba-lô treo trên sào đồ. Anh đem theo bảy bộ quần áo và ba bộ đồ mát mặc khi đi ngủ. Còn đồ lót thì những mười bộ, anh mang theo nhiều như vậy là vì anh không thích mặc đồ lót cũ và độc một bộ suốt ngày.

Hai người tắm rửa xong thì nơi bộ ngựa đã bày biện thịnh soạn. Chính giữa bộ ngựa là một cái nồi lẩu điện nghi ngút khói, kế bên tay phải là một rổ đựng hột vịt lộn đầy vung, còn kế bên tay trái là một mâm đồ bổi, và mỗi một góc để một rổ rau xanh ngắt. Đặng Xương Tuyết đếm số chén, đũa thì thấy có tổng cộng mười hai bộ.

- Ơi, cậu là cậu Tuyết mà Ba Chiêu nhắc hôm qua đó hả?

- Dạ, là con... Chú là?

Người đàn ông đã xấp xỉ ngũ tuần cười mỉm chi beo, rồi xởi lởi giới thiệu vai vế của mình trong cái nhà này. Giọng nói có hơi đớt đát và quởn xo, chẳng câu nệ cách đánh vần âm tiết, nghe qua biết ngay là dân quê chất phác, thật thà, dễ thương, dễ mến.

Ông ấy là ông cậu bên nội của Trần Cảnh Chiêu, cả gia đình lớn bé ở đậu trên đất nhà ba má anh. Cậu đã lập gia đình và có được ba đứa con: Hai trai và một gái, mỗi đứa hơn kém nhau khoảng chừng ba tuổi. Hai vợ chồng đều lấy ruộng vườn làm "cần câu cơm"; quanh năm cắm mặt cho đất, cắm lưng cho trời nên nước da ngăm đen và tay chân thì chai sần, thô kệch. Tiếng nói, tiếng cười rổn rảng, nghe hào sảng và phóng khoáng vô cùng.

- Lên ăn mau mấy đứa. - Nội giục. Rồi đợi cho tất cả đã ổn định vị trí được giao, nội đại diện cho đại gia đình giới thiệu từng người cho cậu khách phương xa hay tên tuổi.

Nội vừa lấy muôi khuấy nước lẩu, vừa nói:

- Ăn món này vô là "mát trời Ông Địa" luôn nghen mấy đứa. Đâu, cậu Tuyết đưa chén để nội múc cho con ăn thử trước nè.

Đặng Xương Tuyết đưa chén cho bà nội Cảnh Chiêu bằng cả hai bàn tay; vừa đưa, vừa cúi đầu cảm ơn nội. Trong lúc đó, ông Trần đương đập hột vịt lộn vào nồi nước lẩu, nhà đông miệng ăn nên ông đập mỏi cả tay.

- Khô cá chỉ vàng nướng lửa than sắp chín rồi... - Chị dâu của Trần Cảnh Chiêu thông báo. - Dạ, ai muốn ăn nói cho con biết một tiếng để con lựa miếng chín ăn trước. Con làm mắm me rồi đó nghen.

- Cậu Tuyết mua khô cá chỉ vàng ở đâu mà coi mòi ngon dữ vậy? - Anh Hai của Trần Cảnh Chiêu vừa gắp cho vợ yêu một miếng chả cua đồng, vừa hỏi han gã văn sĩ điên.

- Tôi nhờ người đặt mua ở miệt Gò Công, nên không biết rõ địa chỉ chính xác.

- Chà, cái này mà nhậu rượu đế là bén dữ hén?

- Trời, nhắc tới "gụ" đế mới nhớ. Ăn ếch kho tộ với cháo trắng rắc tiêu cay cay đó đa, lại chơi thêm xị "gụ" đế vô... - Ông Trần xuýt xoa một tiếng, mới nói tiếp. -... Ta nói nó đã gì đâu luôn nghen.

Ông cậu bồi thêm:

- Khuya nay tôi đi soi ếch, cậu Tuyết có muốn đi chung hôn?

Đặng Xương Tuyết xin khất một bữa, anh hẹn rằng khuya mai sẽ đi chung với ông cậu.

Hiểu thằng nhỏ đi xe đò còn mệt, nên ông cậu thôi rủ rê nữa. Cậu hứa trưa mơi sẽ đãi cho anh một bữa ếch kho tộ ăn với cháo trắng, còn về phần rượu đế thì không ép uống. Rồi hỏi anh có muốn ăn chuột đồng bảy món không. Thấy anh lắc đầu nguầy nguậy, ông vỗ đùi cái "Đét" và bật cười ha hả. Ghẹo chơi thôi chớ cậu dư biết thằng nhỏ này không ăn được. Cậu tính thầm trong bụng sẽ ghé nhà mấy đứa bạn đóng đáy đặt mua mớ cá ngon về nướng trui đãi thằng nhỏ, dẫu chẳng quý giá gì, song đó là tất cả những gì mà tài chính của cậu có thể kham được, để đáp lễ mấy ký khô cá chỉ vàng rất ngon của nó.

Ăn uống say sưa và trò chuyện rộn rã tới hơn mười giờ, mọi người mới biểu nhau đi nghỉ. Cả nhà Trần Cảnh Chiêu kiên quyết không cho anh ta và người khách phương xa dọn dẹp, nên cực chẳng đã hai người đành lui về phòng trước.

Nhổ xong ngụm nước súc miệng, Đặng Xương Tuyết ngẩng mặt hỏi viên pháp y Bạc Liêu:

- Sao anh muốn ngủ chung với tôi?

- Tiết kiệm điện. - Trần Cảnh Chiêu đáp tỉnh rụi. Rồi chợt đổi giọng hỏi. - Anh có biết giảng viên Phan Hoài Việt không?

- Có, có quen biết chút chút, dạng độc giả với người viết sách thôi.

- Nghe đồn vừa nghỉ hè là anh ta "cuốn theo chiều gió"... Gia đình ảnh hiện đương loan tin tìm kiếm...

- Phải, tôi đã lâu không thấy thầy Việt. - Vì vừa lau mặt, vừa nói chuyện nên tiếng nói của Đặng Xương Tuyết trở nên biến dạng.

- Chắc nói quá bị chúng bắt luôn rồi. - Trần Cảnh Chiêu chép miệng. Rồi gãi bụng sột soạt.

Đặng Xương Tuyết phì cười. Có lẽ xong chuyện ở đây thì anh sẽ vòng qua miệt Kiến Hòa một chuyến để tìm kiếm anh thầy giùm gia đình ảnh.

- Để đèn hay tắt đèn đây?

Trần Cảnh Chiêu chép miệng:

- Ngô Tất Tố.

Đặng Xương Tuyết cất cặp kính thuốc vào hộp đựng có dạ quang, rồi uống vài ngụm nước suối ngọt lành. Tiếng côn trùng và loài lưỡng cư kêu ầm ĩ quanh mảnh vườn rộng lớn, vọng vào tai anh nghe chẳng khác nào một khúc nhạc ru ngủ thần kỳ. Anh rướn mắt kiểm tra ba-lô và quần áo máng trên sào một lần nữa, sau đó mới tắt đèn và leo lên bộ ngựa nằm ngủ khò.

Vừa mới nghe tiếng ngáy của gã ký giả, Trần Cảnh Chiêu lập tức mở mắt. Anh rón rén ngồi dậy, cố gắng giữ cho nhịp thở bình thường. Đoạn cầm bàn tay anh ta lên săm soi một đỗi, rồi lần tay coi ngó từng đầu ngón tay.

- A. - Trần Cảnh Chiêu kêu lên.

Đặng Xương Tuyết chồm lên người Trần Cảnh Chiêu, tay phải bóp cổ anh ta và gằn giọng hỏi:

- Tính thu thập dấu vân tay của tôi sao?

Trần Cảnh Chiêu làm dấu Amen.

Như hiểu ý Trần Cảnh Chiêu, bàn tay Đặng Xương Tuyết nới lỏng dần, rồi rời khỏi cần cổ của viên pháp y. Một tràng ho sù sụ vang lên bên tai anh, kế tiếp là một giọng nói mang thanh âm khàn đục:

- Thói quen nghề nghiệp thôi mà.

- Thói quen này dễ bị đi bán muối lắm đấy.

- Anh có quen thân với Hoài Việt không?

- Không, hai đứa tôi chỉ là bạn cà-phê. Tôi đã nói rồi mà... - Đôi mắt mang hình tướng chim loan ấy long lên sòng sọc.

- Họ nghi ngờ anh ta là hung thủ ám sát tướng Kỳ...

- Nói anh ta "ám sát" con gà tôi còn không tin, chứ đừng nói tới con người.

- Anh dám chắc không? - Trần Cảnh Chiêu nhướng cao chân mày, nhếch miệng cười mà hỏi lại anh. - Trong ngành điều tra - phá án, chỉ nên tin vào tang chứng, vật chứng rành rành trước mắt, chứ không bao giờ nên tin vào lời nói suông của bất kỳ bên nào.