Cuộc Đời Của Pi

Chương 8



Trong nghề nghiệp chúng tôi thường nói rằng con vật nguy hiểm nhất trong 1 vườn thú là người. Theo nghĩa rộng, chúng tôi hàm ý rằng tính cách ăn thịt lẫn nhau quá đáng của giống loài chúng ta đã biến toàn thể hành tinh này thành 1 con mồi của loài người. Theo nghĩa cụ thể, chúng tôi muốn chỉ những người vẫn cho rái cá ăn lưỡi câu, cho gấu ăn dao cạo, cho voi ăn táo có đinh nhọn ở trong, và cho tất cả các con vật khác ăn đủ các loại đồ vật: bút bi, cặp giấy, đinh ghim, dây cao su, lược, thìa cà phê, móng ngựa, thuỷ tinh vụn, nhẫn, trâm cài đầu và các đồ trang sức khác (ko fải chỉ có các đồ nhựa rẻ tiền đâu, mà cả nhẫn cưới = vàng nữa kìa), rồi thì ống uống nước, dao đĩa nhựa, bóng ping-pong, bóng tennis, vân vân và vân vân. Danh sách khai tử các con vật trong vườn thú vì bị cho ăn các đồ vật như thế bao gồm khỉ độc, bò rừng, cò, vạc, đà điểu, hải cẩu, hải sư, hổ báo, gấu, lạc đà, voi, khỉ, và hầu hết các loài hươu nai, chuột bọ và chim chóc. Trong giới quản lí vườn thú, cái chết của Goliath là câu chuyện ai cũng biết. Đó là 1 con hải cẩu đực, 1 con vật lớn, đẹp, nặng hơn 2 tấn, minh tinh của 1 vườn thú châu Âu nơi nó trú ngụ, được tất cả khách thăm yêu mến. Nó chết vì bị chảy máu nội tạng sau khi có người cho nó ăn 1 chai bia vỡ.

Sự độc ác còn tích cực và trực tiếp hơn thế nữa. Có rất nhiều các tường trình về hiện tượng tra tấn hành hạ các con vật trong vườn thú: 1 con cò mỏ hình giầy chết vì choáng sau khi mỏ nó bị người ta dùng búa đập dập nát; 1 con hươu thuần lộc bị người ta dùng dao lột bộ râu, kéo theo cả 1 dẻo da thịt (con thuần lộc này 6 tháng sau thì bị đầu độc mà chết); 1 con khỉ thò tay ra nhận hột lạc người ta dử cho thì bị bẻ gẫy ngay cánh tay đó; 1 con hươu có sừng bị người ta dùng cưa mà cưa mất; 1 con ngựa vằn bị đâm = kiếm; và còn biết bao chuyện tấn công các con vật bằng ba-toong, cán ô, cặp tóc, kim đan, kéo và đủ thứ khác, thường với mục đích muốn móc mắt con vật hoặc làm bị thương bộ phận sinh dục của chúng. Súc vật thường xuyên bị đánh thuốc độc. Và còn những chuyện ghê tởm kì dị khác nữa: bọn dâm vật cưỡng hiếp khỉ, ngựa non, chim; một kẻ cuồn tín cắt đầu 1 con rắn; 1 kẻ điên tìm bằng được cơ hội đái vào mồm 1 con hươu Bắc cực.

Chúng tôi tương đối may mắn, ở Pondicherry. Chỗ chúng tôi ko có những người mắc chứng sadic (1) như bên châu Âu và châu Mỹ. Tuy nhiên con điêu thử lông vàng của chúng tôi biến mất tăm. Cha tôi nghi nó bị ai đó bắt ăn thịt. Nhiều chim trĩ, công, vẹt bị người ta vặt lông. Chúng tôi tóm được 1 người mang dao đang trèo vào trại nuôi hươu, người ấy nói ông ta muốn trừng fạt tên Ravana độc ác (là nhân vật trong trường ca Ramayana, biến thành 1 con hươu để bắt cóc Sita, nàng hầu của Rama). Một người khác thì bị bắt quả tang khi đang bắt trộm 1 con rắn hổ mang. Ông là người thổi kèn rắn vừa chết mất con hổ mang của mình. Cả 2 đều được cứu thoát: con hổ mang thì khỏi bị cuộc sống nô lệ và thứ nhạc tồi tệ kia, cònngười ấy thì khỏi toi mạng vì hổ mang cắn. Chúng tôi còn fải đối phó với những người mém đá thường muốn khiêu khích cho súc vật fải động cựa lên. Và chúng tôi còn có 1 bà mệnh fụ fu nhân mà áo dài lụa bị 1 con sư tử ngoạm fải. Bà ta bị quay như 1 con quay yo-yo, thà thoát y còn hơn chết. Mà nào có fải tai nạn cho cam. Bà ấy đã thò cả cánh tay vào chuồng sư tử và vẫy vẫy tà áo dài trước mặt mãnh sư, không biết để làm gì. Bà ấy ko sao hết. Rất nhiều các ông lao đến giúp bà. Với cha tôi, bà ấy bảo: ''Ai đời sư tử mà lại thích ăn váy áo cơ chứ. Tôi cứ tưởng chúng chỉ là loài ăn thịt.'' Gây rắc rối tồi tệ nhất là đám khách hay thích cho súc vật thức ăn. Mặc dù sự cảnh giác của chúng tôi, bác sĩ thú y Atal của vườn, có thể dùng con số những con vật mắc chứng rối loạn tiêu hóa để minh họa cho những ngày bận rộn của ông ở vườn thú. Ông gọi chung tất cả các loại bệnh tiêu hóa này bằng 1 từ riêng của ông - ''tidbit-itis'' - mà fần lớn là do quá nhiều carbonhydrad và đường. Đôi khi chúng tôi ước gì họ chỉ dùngđường thôi thì còn đỡ. Người ta tưởng các con vật có thể ăn bất kỳ thứ gì cũng chẳng ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng. Đâu fải thế. Một con culi của chúng tôi bị ốm nặng với chứng viêm ruột chảy máu sau khi ăn 1 con cá thiu do 1 người nhét cho, mà người này nhất định tin rằng ông ta chỉ làm tốt cho con vật mà thôi.

Ngay sau quầy bén vé, cha tôi cho kẻ 1 dòng chữ sơn đỏ lên tường: ''Đố quí vị biết trong vườn thú con vật nào là nguy hiểm nhất?'' Một mũi tên chỉ về 1 tấm rèm nhỏ. Đã có biết bao nhiêu bàn tay tò mò háo hức kéo tấm rèm đó, đến nỗi chúng tôi thường xuyên phải thay cái mới. Đằng sau nó là 1 tấm gương.

Nhưng tôi đã fải vất vả mới biết được rằng cha tôi còn tin là có 1 con vật nữa nguy hiểm hơn cả chúng ta, 1 con vật cực kì phổ biến, lục địa nàoi cũng có, địa bàn nào cũng có: đó là loài Animalus anthropomorphicus (2), con vật mà chỉ có mắt người mới nhìn thấy. Chúng ta ai cũng gặp 1 con này, có khi còn sở hữu 1 con là đằng khác. Nó là con vật ''xinh xắn'', ''đáng yêu'', ''vui vẻ'', ''thân thiết''... Chúng rình rập trong tất cả các cửa hàng đồ chơi và vườn thú của trẻ con. Biết bao chuyện về chúng cơ chứ. Chúng là đồ trang sức lủng lẳng trên cổ các con vật ''đồi trụy'', ''xấu xa'', ''khát máu'' đã xui khiến nên các cơn khùng của lũ điên mà tôi vừa kể ở trên, lũ người muốn làm hài lòng chúng bằng ba-toong và cán ô. Trong cả hai trường hợp, chúng ta nhìn vào 1 con vật và thấy 1 tấm gương. Tâm lý bệnh hoạn luôn muốn đặt mình vào trung tâm của mọi vật là 1 ngón thuốc độc chết người ko những của các nhà thần học mà của cả những nhà động vật học nữa.

Tôi đã học được bài học rằng một con vật là một con vật, cơ bản và thực tế là khác hẳn chúng ta, những hai lần: một lần với cha tôi, và một lần với Richard Parker.

Đó là một buổi sáng Chủ Nhật. Tôi đang tha thẩn chơi một mình thì cha tôi gọi.

“Các con, hãy ra đây.”

Có chuyện gì rồi. Giọng nói của cha làm reo một cái chuông báo động tí tẹo trong đầu tôi. Tôi vội kiểm điểm lại lương tâm. Không có gì cả. Chắc hẳn phải là Ravi thôi. Không biết Ravi có chuyện gì đây. Tôi bước vào phòn gkhách. Mẹ ở đó. Không bình thường chút nào. Việc kỷ luật con cái, cũng giống như việc chăm sóc súc vật, thường chỉ là việc của cha. Ravi vào cuối cùng, mặt đầy vẻ tội lỗi.

“Ravi, Piscine, cho có một bài học rất quan trọng cho các con hôm nay.”

“Ôi, có thực cần thiết không mình?” Mẹ nói. Mặt mẹ ửng đỏ.

Tôi nuốt nước bọt. Nếu mẹ, thường bình tĩnh và thản nhiên là thế, mà bây giờ có vẻ lo lắng đến độ bực bội thế kia, thì có nghĩa là có chuyện gì nghiêm trọng thật rồi. Tôi và Ravi lén nhìn nhau.

“Có. Rất cần.” Cha nói, có vẻ khó chịu. “Bài học này có thể sẽ cứu mạng sống của chúng.”

Cứu mạng sống của chúng tôi! Cái chuông báo động trong đầu tôi không còn bé tí tẹo nữa, nó trở thành quả chuông khổng lồ, giống như quả chuông của ngôi nhà thơ Tâm Thiêng của Giáo hội Jesus mà chúng tôi vẫn nghe thấy, không xe vườn thú là mấy.

Mẹ vẫn chưa chịu: “Piscine? Nó mới lên tám.”

“Nó là đứa mà tôi lo lắng nhiều nhất.”

“Con vô tôi!” Tôi òa lên. “Lỗi ở anh Ravi hết, gì cũng là lỗi của anh ấy hết ạ!”

“Cái gì?” Ravi kêu. “Con có làm cái gì sai trái đâu cơ chứ.” Rồi anh nhìn tôi hằn học.

“Lặng im nào!” Cha tôi nói, giơ tay lên. Cha đang nhìn thẳng vào mẹ. “Gita, em đã thấy Piscine rồi đấy. Nó đang tuổi với bọn nhóc suốt ngày loăng quăng và thọc mũi vào khắp mọi nơi.“

Tôi ư? Một thằng loăng quăng? Một thằng thọc mũi vào khắp mọi nơi? Đâu có phải thế? Không phải thế! Mẹ ơi, hãy bảo vệ con đi mẹ, tôi khẩn khoản trong lòng. Nhưng mẹ chỉ thở dài và gật đầu, dấu hiệu cho thấy cái việc khủng khiếp kia sẽ được thi hành.

"Đi theo cha.“

Chúng tôi đi như một bọn tử tù ra pháp trường.

Chúng tôi ra khỏi nhà, bước qua cổng, vào vường thú. Hãy còn sớm và vườn thú còn chưa mở cửa cho công chúng vào.

Những người coi thú và làm vườn đang làm các công việc của họ. Tôi thấy Sitaram, người trông nom bọn khỉ độc, người tôi có cảm tình nhất. Anhđang dừng tay đưa mắt nhìn theo chúng tôi. Chúng tôi đi qua khu chuồng chim, gấu, khỉ độc, khỉ con, tê giác, voi, hươu cao cổ. Chúng tôi đến chỗ hổ, sư tử và báo hoa. Bubu, người chăm sóc chúng, đang chờ ở đó. Chúng tôi đi vòng xuống conđường quanh chuồng, và anh mở khóa cánh cửa dẫn vào chuồng, nằm trên một hòn đảo nhỏ giữa hào nước. Chúng tôi bước vào. Đó là một cái hang xi-măng rộng và tối, hình tròn, nóng và ẩm, sặc mùi nước đái hổ. Khắp xung quanh là những chuồng lớn ngăn với nhau bởi những song sắt to vật sơn xanh lá cây. Một luồng ánh sáng vàng vọt lọt xuống từ những ổ cửa trên trần. Qua các lối ra của chuồng, chúng tôi có thể nhìn thấy cây cối trên đảo, tràn ngập ánh mặt trời. Các ngăn chuồng rỗng không – trừ một ngăn: Mashisha, con hổ Bengal đầu đàn của chúng tôi, một con vật dài rộng và to lớn, nặng gần hai tạ rưỡi, đang bị nhốt trong chuồng. Đúng lúc chúng tôi bước vào, nó đứng dựa vào các chấn song và bắt đầu gầm gừ rất sâu trong cổ, cặp tai nó ép sát vào đầu và đôi mắt tròn xoe dán chặt vào Babu. Tiếng gầm gừ của nó to và vang đến nỗi tưởng như làm cả khu chuồng rung lên. Đầu gối tôi bắt đầu run. Tôi nép vào mẹ. Mẹ cũng run. Ngay cha tôi cũng có vẻ đang trấn tĩnh lại. Chỉ có Babu vẫn tỉnh bơ như không trước tiếng gầm và cái nhìn xoáy vào anh ta như lưỡi khoan. Anh đã được thử thách để tin tưởng vào các chấn song sắt. Mashisha bắt đầu đi đi lại lại trong giới hạn của chuồng.

Cha quay sang chúng tôi. "Con vật gì đây?” Cha quát để át được tiếng gầm gừ của Mashisha.

“Dạ, con hổ ạ,” Ravi và tôi đồng thanh, ngoan ngoãn chỉ ra điều hiển nhiên không thể nhầm lẫn.

“Hổ có nguy hiểm không?”

“Thưa cha có ạ, hổ nguy hiểm ạ.”

“Hổ rất nguy hiểm,” cha hét lên. “Cha muốn các con hiểu rằng không bao giờ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, được chạm đến một con hổ, vuốt ve một con hổ, thò tay qua song sắt chuồng hổ, và ngay cả đến gần một cái chuồng hổ. Đã rõ chưa? Ravi?”

Ravi gật đầu lia lịa.

“Piscine?”

Tôi gật đầu còn lia lịa hơn.

Cha nhìn tôi chằm chặp.

Tôi gật đầu mạnh đến nỗi lấy làm ngạc nhiên sao chưa bị gẫy cổ và rơi đầu xuống sàn lúc đó.

Tôi muốn có vài lời tự bạch rằng, mặc dù tôi có thể đã nhân cách hóa các con vật đến mức chúng có thể nói trôi chảy được tiếng Anh, với đám chim trĩ than phiền bằng giọng quý phái Anh chính hiệu rằng trà của chúng nguội quá, và bọn khỉ đầu chó bàn bạc kế hoạch chạy trốn sau khi cướp nhà băng bằng giọng găng-tơ Mỹ đặc sệt, nhưng tôi lúc nào cũng tỉnh táo và ý thức được rằng đó chỉ là những huyễn hoặc mà thôi. Tôi hoàn toàn cố tình khoác cho những con vật hoang dã những bộ cánh hiền lành của trí tưởng tượng. Song tôi không bao giờ mụ mị đến hoang tưởng về bản chất thực của chúng. Cái mũi thọc mạch của tôi tỉnh táo hơn thế. Không hiểu sao mà cha tôi lại nghĩ rằng đứa con út của ông lại có thể ngứa ngáy đến mức bước chân vào chuồng một con thú dữ ăn thịt được kia chứ. Nhưng cho dù nỗi lo lạ lùng ấy của cha có nguồn gốc ở đâu đi nữa – mà cha là người cả lo – rõ ràng là ôngđã quyết tâm phải trừ bỏ mối này trong buổi sáng hôm đó.

“Để cha cho các con thấy loài hổ nguy hiểm đến mức nào,” cha tiếp tục nói. “Cha muốn các con ghi nhớ bài học này suốt đời.”

Cha quay sang gật đầu với Babu. Babu đi ra. Mashisha đưa mắt nhìn theo anh ta và không chịu rời khỏi đầu của mà Babu vừa đi qua. Vài giây sau, Babu trở lại, vác theo một con dê đã trói hết chân vào với nhau. Mẹ ôm lấy tôi từ phía sau. Tiếng gầm gừ của Mashisha biến thành một tiếng tru ầm ào sâu tít bên trong cổ.

Babu mở khoá, mở cửa, bứơc vào, khép và khóa cửa một ngăn chuồng ngay cạnh chuồng Mashisha. Hai ngăn cách nhau bằng các sập cửa và các chấn song. Mashisha lập tức bám vào hàng chấn song đó, cào cấu chúng. Nó bắt đầu thêm vào tiếng gầm gừ kéo dài những tiếng hộc mạnh mẽ như có thuốc nổ. Babu đặt con bê xuống sàn; hai bên sườn con vật phập phồng dữ dội, lưỡi nó thè lè khỏi mỗi, và mắt nó trợn ngược. Babu cởi trói cho con dê. Nó đứng lên. Babu ra khỏi chuồng cũng thận trọng như khi vào. Ngăn chuồng đó có hai mức sàn, một mức ngang với chỗ chúng tôi đang đứng, một mức nữa ở phía sau, coa hơn độ một thước, dẫn ra phía ngoài đảo. Con dê lập cập trèo lên sàn trên. Mashisha, không để ý gì đến Babu nữa, chuyển động trong căn chuồng của nó theo bước đi của con dê trong một dáng điệu uyển chuyển như nước chảy. Nó phủ phục và nằm im, cái đuôi đung đưa chậm rãi là dấu hiệu căng thẳng duy nhất.

Babu bước lên chỗ cái cửa sập ngăn giữa hai căn chuồng và bắt đầu kéo nó lên. Biết là sắp được thỏa mãn, Mashisha im phăng phắc. Tôi nghe thấy hai thứ vào giây phút đó: cha nói: “Đừng bao giờ quên bài học này” trong khi ông nhìn lên một cách nghiêm nghị; và tiếng kêu be be của con dê. Chắc nó đã kêu lảnh lót như vậy ngay từ đầu, chỉ có điều đến lúc ấy tôi mới nghe thấy.

Tôi thấy bàn tay mẹ áp chặt lên chỗ tim tôi đang đập thình thịch.

Cái cửa sập kêu rít lên mấy tiếng. Mashisha không tự chủ được nữa – trông có vẻ như sắp nổ tung qua các chấn song sắt. Nó có vẻ lưỡng lự, không biết nên ở nguyên tại chỗ, gần chỗ con mồi nhất nhưng lại không thể với được tới, hay là chuyển xuống sàn dưới, xa con mồi hơn nhưng lại gần cái cửa sập hơn. Nó vươn người lại và bắt đầu gầm gừ.

Con dê bắt đầu nhảy. Nó nhảy cao lạ lùng. Tôi không ngờ dê lại có thể nhảy cao đến thế. Song phía sau căn chuồng là một bức tường xi măng cao và nhẵn nhụi.

Thình lình, cánh cửa sập nhẹ nhàng trượt lên. Rồi yên lặng trở lại, chỉ nghe tiếng con dê kêu và tiếng móng chân nó gõ liên hồi xuống sàn.

Một dòng thác màu đen và da cam chảy ào từ căn chuồng nay sang căn chuồng kia.

Bình thường, người ta không cho hổ báo ăn một ngày mỗi tuần, để mô phỏng theo điểu kiện sống của chúng ngoài hoang dã. Về sau chúng tôi được biết là cha đã ra lệnh bỏ đói Mashisha trong 3 ngày liền.

Không biết là tôi có nhìn thấy máu trước khi nhào vào lòng mẹ hay là tôi đã vẽ ra máu trong kí ức mình sau này bằng những nét bút lông to bè. Nhưng mà tôi nghe thấy. Đủ hãi hùng để thổi tắt ngấm những tia sáng của sự sống chỉ biết ăn chay ra khỏi linh hồn tôi. Mẹ lập cập ôm lùa chúng tôi ra khỏi đó. Chúng tôi sợ phát cuồng. Mẹ tức giận thật sự.

“Sao anh có thể thế được, anh Santosh? Chúng nó chỉ là trẻ con! Anh đã làm chúng sợ hãi đến hết đời!”

Giọng mẹ nóng giận và run rẩy. Tôi thấy cả nước mắt đọng trong mắt mẹ. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn.

“Gita, con chim nhỏ của anh, cũng là vì chúng mà thôi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Piscine thò tay qua chấn song chuồng hồ một ngày nào đó để vuốt ve bộ lông da cam đẹp đẽ kia? Thà mất con dê còn hơn, phải không nào?”

Giọng cha êm, gần như thì thầm. Trông cha rất căng thẳng. Cha chưa khi nào gọi mẹ là “con chim nhỏ của anh” trước mặt chúng tôi.

Anh em tôi quấn chặt lấy mẹ. Cha ôm lấy chúng tôi. Nhưng bài học chưa hết, mặc dù phần sau có vẻ nhẹ nhàng hơn.

Cha dẫn chúng tôi tới chỗ sư tử và báo.

“Có một người mất trí ở Australia có võ karate đến hắc đai. Hắc ta muốn chứng tỏ sức mạnh của mình với sư tử. Hắn thua. Thậm tệ. Người ta chỉ tìm thấy một nửa thi thể của hắn vào sáng hôm sau.”

“Vâng, thưa cha.”

Đến bọn gấu Hymalaya và gấu culi.

“Chỉ một nhát cào của các con vật củ mỉ cù mì kia cũng đủ ruột gan các con lòi đầy mặt đất.”

“Vâng, thưa cha.”

Bọn hà mã.

“Với cá mõm mềm mại và mỡ màng kia, chúng sẽ nghiền nát thân thể các con thành một đống bầy nhầy. Lên cạn, chúng chạy còn nhanh hơn các con.”

“Vâng, thưa cha.”

Bọn linh cẩu.

“Những bộ hàm khoẻ nhất trong thiên nhiên. Đừng tưởng chúng hèn nhát hoặc chỉ biết ăn thịt chim chóc. Chúng không nhát và không ăn thịt chim! Chúng sẽ ăn ngay các con khi các con vẫn còn sống hẳn hoi.”

“Vâng, thưa cha.”

Bọn khỉ độc.

“Khỏe bằng mười người. Chúng bẻ xương các con như bẻ que. Cha biết vài con đã từng được nuôi chơi trong nhà và các con đã từng đùa rỡn với chúng khi chúng còn bé. Nhưng bây giờ chúng đã lớn, hoang dại và khó lường.” . Đam Mỹ H Văn

“Vâng, thưa cha.”

Bọn đà điểu.

“Trông xơ xác và ngốc nghếch, phải không nào? Hãy nghe đây: chúng là một trong những loài vậy nguy hiểm nhất trong vườn thú. Chỉ một cú đá của chúng thôi là đủ bẻ gẫy xương sống xương sườn của con rồi.”

“Vâng, thưa cha.”

Bon hươu sao.

“Thật xinh đẹp, phải không nào? Nếu các đực cảm thấy cần thiết, nó sẽ tấn công các con và những nhánh sừng ngắn ngủi kia sẽ xuyên thủng các con như dao găm vậy.”

“Vâng, thưa cha.”

Bọn lạc đà Arập.

“Một miếng đớp của nó thôi là các con đi toi mảng thịt xương rồi.”

“Vâng, thưa cha.”

Bọn thiên nga đen.

“Với những cái mỏ kia, chúng sẽ bổ vỡ sọ các con. Và sẽ bẻ chân tay các con bằng những đôi cánh của chúng.”

“Vâng, thưa cha.”

Bọn chim lau nhau.

“Chúng sẽ cắt đứt ngón tay của các con bằng mỏ nhọn như thể tay các con là bơ vậy.”

“Vâng, thưa cha.”

Lũ voi.

“Con vật nguy hiểm nhất tất cả. Trong vườn thú voi là con vật đã giết chết nhiều người làm và khách tham quan nhất. Một con voi non sẽ có thể xé rời chân tay và giày xéo thân thể các con thành bẹp gí. Đó là số phận của một người là trong một vườn thú bên châu Âu, đã dám trèo vào chuồng voi qua một cửa sổ. Một con voi chín chắn hơn, bình tĩnh hơn, sẽ nghiền nát các con vào tường hoặc ngồi lên các con. Nghe thì buồn cười đấy - những hãy nghĩ mà xem!”

“Vâng, thưa cha.”

“Còn nhiều các con chúng ta không thể đến được. Đừng tưởng chúng vô hại. Sinh vật nào cũng biết tự vệ, không kể to nhỏ. Con vật nào cũng dữ tợn và nguy hiểm cả. Nó có thể không giết chết các con, nhưng chắc chắn sẽ làm các con thương tổn. Nó sẽ cào cấu, cắn xé và các con chỉ việc đợi đó để bị nhiểm trùng, sưng tấy và đầy mủ, rồi thì sốt cao và mười ngày trong bệnh viện.

“Vâng, thưa cha.”

Chúng tôi đến chỗ bọn chuột khoang, loài vật duy nhất bị cha tôi ra lệnh bỏ đói cùng với Mashisha. Chúng không được ăn bữa tối hôm trước. Cha mở khoá chuồng. Ông lấy ra một túi đồ ăn trong túi quần và dốc hết xuống sàn.

“Các con thấy những con chuột khoang này chứ?”

“Vâng, thưa cha.”

Các chú chuột run rẩy vì mệt khi chúng hối hả gậm nhấm những hạt ngô.

“Này, này… cha cuối xuống bế một con lên tay. Chúng không nguy hiểm đâu.” Đám chuột chảy tản ra ngay lập tức.

Cha cười. Ông đưa cho tôi con chuột khoang đang còn kêu lí nhí. Ông đã chuẩn bị cho bài học kết thúc một cách nhẹ nhàng.

Con chuột khoang căng thẳng nép mình trong cánh tay tôi. Một con còn non. Tôi bước đến chuồng và thận trọng đặt nó xuống sàn. Nó chạy vụt đến bên mẹ nó. Lí do duy nhất khiến những con chuột khoang này không gây nguy hiểm – nghĩa là không gây đổ máu bằng răng và móng của chúng – là chúng thực sự đã đựơc thuần hóa. Nếu không, túm một con chuột khoang hoang dã bằng đôi bàn tay trần sẽ giống như túm một con dao đằng lưỡi.

Bài học kết thúc. Ravi và tôi nín lặng và né tránh cha suốt một tuần. Mẹ cũng lờ cha đi. Khi tôi đi qua chỗ bọn tê giác, tôi tưởng tượng rằng chúng đang cúi đầu buồn bã vì đã mất một trong số những bạn bè thân thiết của chúng.

Nhưng biết làm sao được khi ta yêu quý cha? Cuộc sống cứ tiếp tục và ta đừng có mà chạm đến hổ. Chỉ trừ có chuyện là tôi đã trót đổ tội vu vơ cho anh Ravi sáng hôm đó và bây giờ thì coi như đã chết rồi. Trong nhiều năm sau, khi Ravi muốn khủng bố tôi, anh sẽ rít lên khe khẽ vào tận tai tôi, “Hãy cứ đợi cho đến khi chỉ còn mày với tao. Mày sẽ là con dê tiếp theo đấy!”

====

Chú thích:

(1): Chứng bệnh tâm lý tìm khoái cảm khi làm người khác đau

(2): Chữ Latinh, nghĩa là ''con vật mang hình người''