Mộ Vân Thâm

Chương 22



“… Tiểu Địch, chạy từ từ thôi…”

Đứa trẻ khoác áo sặc sỡ dệt bằng tơ tằm đang chạy chân trần về phía ao nước.

“… Đừng trèo lên trên, ôi! Nghe lời nào… Tiểu Địch, xuống đi…”

Hắn không rảo bước nhanh hơn được, đành phải chầm chậm đi theo sau. Đứa trẻ đã trèo lên đá Thái Hồ cạnh ao, với tay muốn quơ lấy quả đào mới mọc ở đầu cành đang vươn mình trên mặt nước, bỗng nó trượt chân khỏi gờ đá, máu chảy lênh láng. Nó quay đầu lại, trên mặt không có nước mắt, cơ thể đổ ập về sau. Hắn nhào đến bên hồ, vươn tay muốn níu lấy mà chẳng thấy bóng dáng đâu, chỉ còn cả hồ máu đập vào mắt hắn.

Dục Sơ mở choàng hai mắt, mồ hôi thấm ướt áo.

Trong phòng vang tiếng bước chân, La phi cầm nến xốc màn giường.

“Điện hạ?”

Dục Sơ lắc đầu xua tan đi sắc máu trước mặt, nhăn chặt mày vì ánh nến chói lọi.

La phi thổi tắt nến, lấy khăn lụa lau mồ hôi túa trên trán Dục Sơ, “Ngài lại bị bóng đè đấy ư?”

Dục Sơ nhắm mắt lấy lại bình tĩnh rồi mới nói, “Bao ngày nay ta ngủ không yên giấc, đã bảo các nàng không cần ở cùng, có người bên cạnh càng dễ tỉnh.”

Hắn hiếm khi than phiền với người nhà, mấy câu này đã coi như nặng lời, lòng La phi hổ thẹn, nàng cúi đầu cắn môi, lúc sau mới khẽ thưa: “… Thiếp… thấy điện hạ nghỉ ngơi sớm mới vào phòng làm mấy chuyện nữ công gia chánh, nghĩ bụng nếu điện hạ tỉnh giữa chừng cũng tiện dâng chén trà.”

Dục Sơ nhẹ nhàng kéo bàn tay nàng đang đặt trên trán, “Trong lòng ta có tâm sự, không trách nàng, nàng chỉ quan tâm ta, để ta yên tĩnh một lát là được.”

La phi gật đầu, rút tay ra khỏi bàn tay Dục Sơ, “Thiếp đã biết, thiếp sẽ xuống ngay và bảo bọn hạ nhân không được vào, điện hạ ngủ tiếp đi.”

“Giờ nào rồi?”

“Vừa mới quá canh hai.”

“Như Hồng ngủ chưa?”

Lòng La phi xót xa, “Chắc… còn chưa.”

Dục Sơ khoác áo đứng dậy, không nói gì mà đi thẳng ra khỏi phòng.

La phi đứng giữa căn phòng không đốt đèn, lặng lẽ nuốt nước mắt vào trong.

Dục Sơ bước qua vườn hoa đằng đông, thấy trong phòng Như Hồng vẫn thắp đèn, thoáng do dự rồi đẩy cửa bước vào.

Như Hồng đang ngồi vẽ bên án, cô người hầu là của hồi môn từ nhà mẹ đẻ đang giúp nàng pha màu, thấy Dục Sơ bước vào thì vội vã dập đầu hành lễ, ngẩng đầu nhìn Như Hồng, xong đứng dậy lui xuống.

Như Hồng nhúng phèn chua vẽ một quầng trăng bên ngoài mặt trăng rồi để bút xuống.

“Điện hạ tới rồi đấy à.”

Dục Sơ gật đầu, hai người chẳng nói lời nào. Nét bút cuối cùng trên tờ giấy Tuyên khô dần.

“Ca ca ngươi có gửi thư đến không?”

Như Hồng cười, “Ca ca ta từ trước đến nay vẫn gửi đúng hạn mỗi tháng một phong thư, tháng này chưa đến hạn nên tất nhiên không có.”

Căn phòng lại lặng yên.

“Những phong trước kia ta cầm đi đều để ở hộc bàn trong thư phòng.”

Như Hồng bước đến trước án, nhấc bút lên lần nữa: “Thư là ca ca viết cho Như Hồng, sao lại để điện hạ cầm? Không thì để Như Hồng hỏi dưới thư xem, tại sao ca ca không viết thư cho điện hạ.”

Dục Sơ không nói gì nữa, xoay người bước ra ngoài, “Trời cũng lạnh, nàng nghỉ ngơi sớm đi.”

“Đến lúc này rồi mà điện hạ cũng không nghỉ lại đây sao?”

“Mấy hôm nay ta ngủ không ngon, đêm nào cũng một mình.”

“Người ngài muốn ngủ cùng đang ở xa vạn dặm, tất nhiên là không ngủ ngon rồi.”

Dục Sơ dừng bước, xoay người lại.

Như Hồng cười, “La phi tỷ tỷ là người thật thà nên mới không biết, điện hạ tưởng Như Hồng cũng không thấy rõ sao?”

Dục Sơ nghiến răng, cố gắng dập tắt lửa giận trong lòng, “Nàng thông minh quá đấy, lại đưa bức tranh Thiển Hương cho Dục Thanh, nàng suýt nữa hại chết ca ca mình đó nàng biết không?”

“Sao điện hạ dám chắc Như Hồng không phải cố ý?”

Nhìn nét mặt Dục Sơ, Như Hồng để bút xuống, mỉm cười lại gần hắn, “Với tính cách của ca ca ta, sao lại coi trọng một nữ tử vô tình gặp được ven đường. Thân phận Thiển Hương tất có chỗ để dùng, ngay cả điều này điện hạ cũng không rõ, rốt cuộc suýt hại chết ca ca là Như Hồng hay là điện hạ?”

Sắc mặt Dục Sơ tái nhợt, tay phải bất giác đưa lên ngực, sau khi nhận ra mới vội buông xuống.

“Nàng bày kế sách này là muốn báo thù ai?”

“Trả thù ca ca với trả thù điện hạ thì có gì khác nhau? Lúc đó hai huynh tâm đầu ý hợp, hai bút cùng vẽ, một người đưa tay đẩy, một người với tay nhận, liên thủ đẩy ta vào hố lửa. Nếu có một người chịu giải thích với ta một câu, sao hôm nay ta phải sống góa bụa trong nấm mồ này!”

“Là ta có lỗi với nàng, ta không thể nào dối lòng đáp lại nàng, nàng oán y điều gì? Y gả muội muội ruột vào phủ ta, nàng nghĩ lòng y có dễ chịu không?!”

“Hôm nay điện hạ có thể tự mình nói cho y biết đã năm tháng rồi chưa từng gọi ta thị tẩm lấy một lần, hỏi y xem lòng y có dễ chịu không?”

Khóe môi giống hệt Mạch Sở Địch ấy giờ đây đong đầy lệ, Dục Sơ nhìn những giọt nước mắt của nàng rơi xuống từ cằm, chỉ thấy nản lòng.

“Lúc tẩu tẩu nàng đến đây đề nghị kết thông gia, ta đã không hề đồng ý, y không đích thân đến, ta biết y cũng không muốn, nhưng tẩu tẩu nàng nói, nếu hôn sự không thành, nàng quyết ý xuất gia, ta mới biết tại sao y lại nhận lời hai ngươi tới đây. Ngày ấy Lục thị bảo, nàng chỉ muốn ở bên ta, nàng chỉ cần một danh phận bên ta là đã thỏa lòng, bây giờ những thứ đó ta đều cho nàng cả rồi, ta không cho nàng nhiều hơn được, nàng có oán có hận hãy cứ trút lên ta, y là ca ca ruột của nàng, hại y là hại cả nhà nàng, nàng tự nghĩ cho rõ.”

Mặt Như Hồng giàn giụa nước mắt, nàng cao giọng cười, “Ta hại điện hạ thì không phải là hại cả nhà của ta sao? Hay điện hạ chưa bao giờ coi Như Hồng là người một nhà? Trong mắt điện hạ, Như Hồng chưa bao giờ là thiếp thất, chưa bao giờ là người của điện hạ, chỉ là muội muội của Mạch Sở Địch mà thôi. Tất cả ngon ngọt mà điện hạ cho ta, nào là ôn tồn trong bữa tiệc tân hôn, nào là tử tế của những ngày xưa cũ, nào là những lời quan tâm ân cần giả dối này, tất cả đều bởi vì ta là muội muội của Mạch Sở Địch! Ta biết mình không thể trở thành người trong tim điện hạ, ta vốn tưởng mình giống y đôi phần, biết đâu cũng lấy được chút yêu thương thật lòng của ngài, mà đâu biết ngay cả nửa phần di tình* ấy ngài cũng chưa từng cho ta… Ta còn chẳng xứng làm cái bóng của người đó trong tim điện hạ, sau này mũ phượng khăn quàng cũng có ý nghĩa gì! Chi bằng kéo mọi người chết chung, vừa náo nhiệt vừa gọn ghẽ!!”

(Di tình trong “di tình biệt luyến”, ý là thay lòng đổi dạ.)

Dục Sơ đưa tay kéo nàng vào lòng.

“Đừng nói những lời ngốc nghếch đó nữa.”

Một phen giận dữ bẽ bàng chỉ đổi được câu này, Như Hồng ngây ra rồi nằm nhoài trên vai Dục Sơ bật khóc.

“Tình cảm phu thê là ăn đời ở kiếp với nhau, ầm ĩ đến cùng thì chẳng lợi cho ai. Mấy nay là ta để nàng chịu uất ức, hôm nay không đi nữa, được không?… Nàng khóc nữa thì ta không thể nào ở lại được.”

Như Hồng nén nước mắt, ngẩng đầu nhìn hắn.

Dục Sơ mỉm cười, đưa tay đậy lại đèn lồng trên án, rồi cúi đầu hôn nàng, từ tốn cởi khuy áo ngoài của nàng.

Lòng hắn đau tê tái, mắt đắng chát. Giây phút ấy, hắn cũng muốn báo thù người đó.

Di tình.

Hắn thầm cười lạnh. Thông minh và tâm cơ thế này, quả thật có đôi phần giống ngươi…

Khi Hán binh ồ ạt tiến vào lãnh thổ Lâu Lan, quân đội Tây Thương hoả tốc rút lui về nước.

Dục Thanh xem qua tình trạng tổn thất sau tai họa binh đao ở thủ đô Lâu Lan rồi triệu tập thuộc hạ nghị quyết chiến sự về sau trong quân doanh đóng ngoài hoàng thành. Đa số các tướng lĩnh chủ trương tiến binh chinh phạt lãnh thổ Tây Thương, chỉ có Tề Lăng ưu sầu không nói gì. Từ trước đến nay Dục Thanh luôn coi trọng ý kiến của gã, sau khi mọi người giải tán thì gọi riêng gã ở lại hỏi, Tề Lăng do dự mãi mới bảo: “Thuộc hạ cũng biết nên ra sức đánh Tây Thương, ý đồ tái phạm của chúng còn chưa nguôi, chỉ là, bây giờ thuộc hạ không khuyên điện hạ tiến binh.”

“Vì sao?”

“Trong hai năm nay, các chiến sĩ phải viễn chinh hai lượt, hơn nữa khí trời rét căm căm, thuộc hạ đã nghe thấy tiếng than khổ của quân phòng thủ.”

“Tòng quân làm binh sĩ là ra sức vì đất nước, huống hồ trước nay ta vẫn phong thưởng hậu hĩnh, họ oán hận gì?”

Tề Lăng ngẩng đầu lên, gương mặt hiện vẻ ấm ức.

“Phong thưởng không đến được tay những binh sĩ bình thường này đâu, có mấy lời ca dao không biết điện hạ đã từng nghe chưa?”

“Ngươi nói đi.”

‘Năm ngoái Tang Can bắc, năm nay Tang Can đông. Chết là người đi lính, công lại chủ tướng mang*.’

(Khứ niên tang kiền bắc, kim niên tang kiền đông. Tử thị chinh nhân tử, công thị tương quân công. Nguyên văn: 去年桑干北,今年桑干东。死是征人死,功是将军功。)

Dục Thanh cau mày, lát sau mới nói: “Ngươi vừa mới nói ý đồ tái phạm của Tây Thương còn chưa nguôi, nếu ta rút quân về, quốc chủ Tây Thương lại cử binh qua, ta đi ngàn dặm đánh bất ngờ là để chơi mèo vờn chuột với gã à?”

Thấy hắn sắp sửa giận, Tề Lăng vội nói: “Ý thuộc hạ là, chi bằng điện hạ dâng sớ kiến nghị với bệ hạ, bố trí quân phủ ở Lâu Lan, tách binh ra đóng quân, thứ nhất có thể khiến Tây Thương biết sợ, thứ hai có thể bành trướng thế lực triều ta vào Tây Vực. Quốc thổ Lâu Lan giờ đây khó thủ, nhất định sẽ đáp ứng.”

Quả là mưu kế đỉnh cấp. Dục Thanh nhìn Tề Lăng, nén lại cơn giận.

Chỉ là…

“Tốn tận ba tháng hành quân ngàn dặm, cứ thế trở về ngươi có cam tâm không?”

Tề Lăng nhất thời im lặng, hồi lâu sau mới nói: “Điện hạ không cam lòng, tất nhiên thuộc hạ biết, nhưng… Nếu không dằn sự không cam lòng này xuống, sau này e rằng sẽ có việc khiến điện hạ không cam lòng hơn.”

Dục Thanh thấy gã cứ nói quanh co, bực bội trầm giọng xuống: “Nói rõ ra.”

“… Nơi này cách kinh thành đâu chỉ ngàn dặm, một khi trong cung có biến, điện hạ sẽ ngắn tay chẳng với tới trời.”

Dục Thanh cười khẩy, “Trong cung có biến? Khoan nói mấy tháng nay ngọc thể phụ hoàng mạnh khỏe, kể cả tam ca có náo loạn cung điện, cướp đi ngọc tỷ, vậy mười vạn binh mã dưới trướng ta lại không đánh nổi một tòa thành Lạc Dương?”

Lòng Tề Lăng chấn động, không dám nhiều lời nữa.

“Truyền lệnh, chuẩn bị binh mã, sáng mai xuất phát.”

Trời Hồ* tháng tám tuyết đã bay, bây giờ vào tháng mười, tuyết đọng dày cả xích* trên đường núi Kim Toa.

(Hồ: thời xưa chỉ các dân tộc phía Bắc và phía Tây Trung Quốc.

Xích: bằng 1/3 mét.)

“Điện hạ, qua đường núi này thì đến kẻ dẫn đường của Lâu Lan cũng không biết đường nữa.”

Dục Thanh siết chặt áo khoác chồn tuyết, nhìn liếc qua Hà tham tướng.

“Người Lâu Lan không biết đường, ắt người Tây Thương sẽ biết, ngươi dẫn một đội tinh binh đi phía trước dò đường, bắt mấy tên Tây Thương về đây.”

Hà Trừng Lâm tuân lệnh đi làm. Dục Thanh nhìn biển tuyết mênh mông trước mắt, nhẹ nhàng ghì ngựa lại.

Đội binh mã dài dằng dặc giẫm giày nỉ trên tuyết lĩnh, ngựa cũng biết phải đạp lên vết chân của ngựa đi trước. Gió lạnh mang tuyết tạt vào gò má, rát như hạt cát quất lên mặt.

Chạng vạng, đại quân hạ trại trên lĩnh, trong lều lớn trải ba tầng giấy dầu vẫn lạnh tê tái. Dục Thanh lại gần bếp lò uống ít canh dầu đun kỹ, cơ thể ấm dần, tinh thần nhẹ nhõm hơn. Lát sau, Hà Trừng Lâm đem một nhóm binh sĩ người Hồ bị trói chặt, báo cáo rằng bắt được những người ở một nơi cách núi hơn năm mươi dặm, xác nhận là vệ binh canh gác biên phòng của Tây Thương. Dục Thanh sai người gọi quan phiên dịch của Lâu Lan, hỏi chúng hướng đi Tây Thương, chẳng ngờ những tay lính Hồ này ai nấy cứng xương cứng cựa, mặc dù ăn bao nhiêu roi gậy cũng không hé lời.

Tề Lăng đứng bên nhìn đôi mắt long lanh của Dục Thanh thoáng nheo lại, một cơn ớn lạnh bò lên đầu vai.

“Xốc lều trướng lên, dẫn chúng ra ngoài đứng thành một hàng trước lều đi.”

Mấy thân binh nghe lời bước đến, dẫn tù binh ra ngoài.

Dục Thanh cao giọng nói ra ngoài trướng, “Bắt đầu hỏi từ người thứ hai, nếu không nói sẽ giết người thứ nhất, hỏi tiếp người thứ ba, nếu không nói giết người thứ hai, cứ thế lần lượt hỏi hết.”

Sắc mặt mọi người trong trướng thoáng trắng bệch. Người trong quân ngũ dù không tiếc mạng mình nhưng luôn yêu thương những huynh đệ đồng sinh cộng tử bên cạnh, không ngờ Lục điện hạ lại tàn độc đến mức lợi dụng điều này.

Ngoài trướng, đã có năm tù binh Tây Thương ngã xuống. Dưới ánh trăng, máu tươi chảy trên nền tuyết ngưng tụ thành một vũng màu đen thê lương. Dịch quan đang đặt câu hỏi cho tù binh thứ bảy, binh sĩ nhìn chiến hữu cuối cùng bên cạnh mình, cả người gã run lẩy bẩy, bỗng thấp giọng nói nhanh câu gì đó. Binh sĩ thứ sáu gào lên đạp gã ngã xuống, đang định đạp tiếp thì bỗng khuỵu hai gối, khóc nức nở trên nền tuyết.

“… Gã nói gì?”

Thân binh bước vào trướng đáp lời, “Hồi bẩm điện hạ, gã nói đại doanh lớn nhất biên cảnh Tây Thương ở cách đây một trăm bốn mươi dặm về phía tây bắc, thổ thành Cao Diệp.”

Dục Thanh ôm hai tay, cúi đầu cười cười, “Ban thưởng chúng một bữa cơm nóng, nói rõ với chúng, nếu dẫn quân ta thuận lợi sẽ có trọng thưởng.”

Hành quân trong tuyết một trăm bốn mươi dặm, người Lâu Lan bảo kể cả kỵ binh Tây Thương cũng phải mất ba ngày, Dục Thanh dẫn tinh binh tập kích bất ngờ, hai ngày đã đến.

Mồ hôi chiến mã hòa tan cả tuyết, tướng sĩ ngẩng đầu đã thấy một tòa thành trống không.

Chỉ có khoảng một trăm binh sĩ Tây Thương đang đóng giữ, thấy đại quân vây thành, hoảng loạn chống trả trong kết cục thảm bại.

Dục Thanh giục ngựa vào thổ thành, Tề Lăng đánh vào thành trước, đưa đầu lĩnh của thủ quân lên: “Nhìn tình cảnh trong thành, có lẽ người Tây Thương biết được quân ta nhập cảnh nên đã vội vã chuyển doanh.”

Người ngợm mệt mỏi, trong lòng thất vọng, Dục Thanh nói với gã: “Chuyển đi đâu, hỏi được không?”

Tề Lăng lắc đầu.

“Đưa hai tù binh bị bắt lần trước tới đây, để chúng nói cho những kẻ này biết, khai báo cẩn thận ắt có thưởng hậu hĩnh, nếu không nói thật thì giết hết đi. Không tìm được chủ lực quân Tây Thương, cùng lắm thì quân ta cướp vương thành của gã.” Dục Thanh nói rồi quay sang bảo với tham tướng doanh vụ bên ngựa: “Lấy thành này làm doanh trại đóng quân một đêm, đợi hậu quân đuổi tới thì lại đi tiếp.”

Tuyết đọng trong thành dày quá không dọn sạch nổi, chỉ đành nhờ móng ngựa đạp ra mấy con đường thông giữa các lán. Dục Thanh dùng xong bữa tối thì đi tuần doanh trong thành. Khi tới doanh cần vụ, đầu bếp đang nấu thuốc khu hàn*. Dục Thanh nhìn cả một nồi nước sôi chỉ thả vài lát gừng mỏng, lòng biết lần này xuất binh vội vàng, những thứ như rượu trắng hay gừng đều không mang đủ, nếu không tốc chiến tốc thắng, e rằng khó mà tiếp tục.

(Khu hàn: xua tan giá lạnh.)

Hành quân hơn mười ngày không thấy được chủ lực bên Tây Thương, đây là điềm báo xấu.

Ra ngoài doanh, gió lạnh ngưng tụ những buồn phiền trong lòng. Trời đêm quang đãng, trăng lạnh chiếu lên tuyết đọng nơi tường thành, long lanh như bạc.

“Điện hạ.”

Dục Thanh ghìm ngựa quay đầu lại.

“Mấy tù binh Tây Thương kia nói, họ không biết hướng đi cụ thể thế nào nhưng bằng lòng dẫn quân ta về phía vương thành Tây Thương.”

Dục Thanh gật đầu, nói với Tề Lăng: “Sáng mai dấy binh.” Dứt lời thì quay ngựa lại trong quân. Gió đêm thổi bạt áo choàng hồ li trắng, hắn đành phải đưa tay bắt lại, xương ngón tay lập tức cóng đến phát đau. Đôi tay đeo găng bằng da hươu vội rụt về dưới áo lông chồn tuyết, ngẩng đầu trông lên ánh trăng, đứng trong gió một hồi.

Gió thổi hướng nam, ngoài núi Côn Luân ấy là Thổ Phiên.

Gió lạnh thổi vào ngươi hơn một năm rồi, ngươi còn chưa ghét nó sao…

Ngày hôm sau, đại quân đi thêm một ngày, tối mới đến được chân núi Cốt Hạc, chạy dọc con đường phía trước là cả vách đá cheo leo.

Dục Thanh ghìm ngựa, cau mày.

Chúng binh dừng ngựa phía sau Dục Thanh, không một ai nói gì. Ai cũng biết núi cao chẳng có đường về, đi tiếp về phía trước thì bắt buộc phải qua đây, mà quan ải trời ban này quá hợp để dụ địch, mai phục.

“Hôm nay ta thật sự tin đây là đường thẳng tiến đến vương thành rồi đấy.” Dục Thanh không ngoảnh lại, giọng thoáng lạnh lùng.

Nơi này hiểm yếu, tiến có thể công, lui có thể thủ, chẳng trách kỵ binh Thổ Dục Hồn mạnh như thế cũng chưa bao giờ đến được cửa thành Tây Thương.

Đến giờ, tuyết ngừng rơi, trời trong xanh đã bốn ngày, nhưng lại là một phen quân cơ nữa.

Dục Thanh gọi quân sư thiên tượng đến, hỏi: “Trận tuyết sau bao giờ mới hạ?”

“Theo thuộc hạ thấy, e là đêm nay sẽ có trận tuyết lớn.”

“Nắm chắc mấy phần?”

“Mười thì có đến bảy, tám.”

Tuyết mới mà rơi, lấp đi dấu tích của tuyết cũ thì phiền to.

Khi Dục Thanh đang do dự, quân sư thiên tượng đã nói: “Thật ra thuộc hạ đang kiến nghị điện hạ, nếu được thì nhanh chóng qua sơn cốc.”

“Ngươi đang nói hướng gió?”

Quân sư gật đầu: “Bây giờ gió đang thổi hướng tây nam, nếu quân ta hạ trại ở bên kia cốc, núi này có thể chặn phần lớn gió, còn nếu đóng ở đây, thuộc hạ sợ rằng doanh trại khó mà ổn định.”

Dục Thanh vốn định đóng quân một đêm, ngày mai mới thong thả qua núi, giờ cân nhắc lợi hại đôi bên rồi quyết định mạo hiểm một lần.

“Hà Trừng Lâm…”

“Có mạt tướng.”

Dục Thanh nhìn gã phút chốc, phi ngựa qua nắm lấy hàm thiếc và dây cương trên ngựa gã.

“Ngươi mang tinh binh dưới trướng qua núi dò đường, đặc biệt phải chú ý đến những chỗ tuyết đọng hai bên sườn núi có khả năng gây hư hại. Nếu thấy nửa dấu chân ngựa, phải tức tốc rút về, nếu không có việc gì thì qua núi, phái một lính về đưa tin, hiểu không?”

Nếu tra không thấy gì khác thường sẽ tiếp ứng cho quân ở ngoài cốc, nếu tra ra điều gì lạ, e rằng… có đi chẳng có về.

Hà Trừng Lâm nhìn Dục Thanh, nặng nề gật đầu, “Thuộc hạ tuân lệnh.”

Dục Thanh nhìn khắp người, gỡ hũ rượu bạc bên hông xuống, treo lên dải đai trên tọa kỵ của Hà Trừng Lâm, hắn không nói gì thêm, nghiêng đầu ra hiệu cho gã xuất phát. Hà Trừng Lâm chắp tay với các đồng liêu bên người một vòng rồi lĩnh binh đi.

Mây đem theo tuyết, từ tốn đè xuống đỉnh núi. Màn trời xám xanh.

Gió mạnh dần, các tướng sĩ thở ra hơi trắng, kết thành sương dày trên lông mi. Thân binh dâng rượu trắng lên cho Dục Thanh, hắn vẫn chưa nhận. Sự im lặng kéo dài hơn nửa canh giờ, bỗng nhiên, một dải cờ đỏ hối hả phi đến trong khung nền trắng bạc trước mắt, rẽ đôi gió tuyết nơi cửa cốc. Đội Hán binh ầm lên tiếng hoan hô, Dục Thanh cầm lấy chén rượu trong tay thân binh, uống một hơi cạn sạch.

“Đi!”

Vẻ mặt các tướng sĩ ai nấy đều vui mừng, ngựa cũng đầy vẻ thích chí, cờ xí lại lên, đội ngũ xuất phát.

Mây đen trên trời dần nặng nề, nhưng tuyết đọng trong cốc phản chiếu sắc trời, tầm nhìn không hề mờ mịt. Dục Thanh thúc ngựa chạy chậm về phía trước, thấy hai bên núi tuyết bằng phẳng tựa vải vóc, gió lướt qua khiến những vết tích trông như hoa văn nối tiếp nhau in chìm trên gấm, cuối cùng cũng yên lòng.

Hẻm núi dài mà sâu, Hán binh lên đường gấp rút, nhưng khi đội sau vào cốc rồi mà đội đầu còn chưa đi đến cửa cốc. Dục Thanh ngước nhìn cờ xí đội quân đằng trước, vừa định hạ lệnh giảm tốc độ để kéo gần đội ngũ, chợt nghe tiếng gió lạnh trên đỉnh núi. Hắn ngẩng đầu trông lên không trung: “Gió tuyết đến rồi sao?”

Thân binh sau lưng gào thảm thiết, Dục Thanh quay phắt lại. Trên ngọn núi đối diện, vô số binh sĩ Tây Thương như u linh dị quỷ, mở cửa đường hầm sơn màu trắng, tràn ra như tuyết rơi, cung tiễn phi xuống không khác gì mưa đổ.

Lòng Dục Thanh hãi hùng, rút đao ngăn tiễn, nghiêm giọng gào: “Tề Lăng, Kiều Lương Ngọc chia nhau ra hai sườn núi, còn lại theo ta đi về phía trước!”

Giọng chủ soái chìm nghỉm trong tiếng gào thét của binh sĩ. Kỵ binh ở chỗ cao không kịp rút đao đã bị vạn mũi tên đâm thủng ngực, ngã ngựa bỏ mình. Những con ngựa bị thương giẫm nát thi thể, máu nóng bắn tung tóe hòa vào trong tuyết đọng, từng con từng con hoảng loạn mất đi kỵ tướng trượt chân ngã xuống vũng máu lầy lội, càng nhiều binh sĩ và ngựa vấp ngã, người ngựa giẫm đạp lên nhau, tàn thi vung vãi, tình thế đại loạn.

Tề Lăng dẫn lính tấn công đỉnh núi, song tuyết đọng xốp mềm, ngựa không thể leo lên nổi. Dưới tình thế cấp bách, Tề Lăng tung người xuống ngựa, một tay cầm đao, dùng cả tay chân cố gắng bò lên trên. Binh sĩ dưới trướng bỏ ngựa trèo lên, thậm chí mấy người còn chồng lên nhau, đưa chiến hữu lên trên. Người Tây Thương chuyển hướng tiến công, mũi tên trút xuống như mưa, quân tiên phong của Hán binh đã trúng mấy tên, ngã xuống từ trên sườn núi, cơ thể họ cuốn theo tuyết đọng khiến bụi tuyết bay mù, con đường lên trên bị che mất, chỉ còn mũi tên nhọn bay xuống khắp mọi nơi, tiếng kêu thảm thiết lấp đầy sơn cốc, như núi băng dưới địa ngục…

“Lui! Rút lui!! Bảo vệ Lục điện hạ đột phá vòng vây!”

Phó tướng khàn cả giọng nói với lên trên.

Tề Lăng cắm chiến đao xuống đất tuyết lạnh cứng, rút dao găm bên hông ra đâm vào chỗ cao hơn.

“Lên trên!! Cố chống đỡ! Chuyển hướng trận tiễn sang chỗ khác!!”

Binh lính của gã dùng dao găm, đoản đao, thậm chí là đinh thúc ngựa trên giày lính để treo người trên vách đá tuyết, vùng vẫy từng tấc từng tấc leo lên. Máu tươi chảy dài trên sườn dốc, nhuộm hết cả vách núi. Mũi tên trong cốc đã thưa dần, Hán binh tập kết ở giữa, theo chân chủ soái tận lực đột phá vòng vây ở cửa cốc, nhưng tiễn trận của Tây Thương lại ập xuống lần nữa, bộ tốt đang chạy trốn ngã xuống đất, xác người nằm la liệt lấp đầy đáy cốc, kỵ binh còn sót lại điên cuồng quất ngựa, không quan tâm móng ngựa đã giẫm xuống bao nhiêu thương binh đang thoi thóp, chen chúc nhau chạy loạn, mấy yên ngựa chiến bị móc vào nhau ngã hàng loạt, hoàn toàn phá hỏng con đường phía trước. Vô số Hán binh sắp chết đang giãy giụa, họ gào khóc đứt ruột đứt gan, cứ như Tu La trường* thôn tính nhân gian.

(Là ngôn ngữ nhà Phật, do Tu La suốt đời lấy chiến tranh là mục đích nên Tu La trường chỉ những trận chiến đẫm máu, người ta dùng “Tu La trường” để hình dung cảnh thê thảm nơi chiến trường.)

“Điện hạ!” Hà Trừng Lâm thò hơn nửa người ra, treo trên ngựa của Dục Thanh, siết chặt dây cương, “Không thể quay lại đâu, điện hạ!!”

Dục Thanh quơ đao cắt đứt dây cương, nắm lấy bờm ngựa, cưỡi ngựa quay về cốc.

“Điện hạ…!!”

Không trung bỗng ầm vang như giọng gào khóc bị la sát lệ quỷ lấy mạng, trận mưa tên của Tây Thương bỗng dừng, hai bên đỉnh núi vang lên tiếng cầu xin hoảng sợ.

Một cơn cuồng phong nổi lên, ngày đêm đảo ngược, bão tuyết chôn vùi trời đất như một con cuồng long khát máu.

Người Tây Thương như gặp phải tận thế, họ hét lên, vứt hết súng trường, cung tiễn vào trong cốc. Dục Thanh ra sức giục ngựa, xông về phía trước trong đống thi cốt chất chồng như núi, dùng chút sức cuối cùng vung chiến đao, thế giới bị sắc trắng mai táng, đôi mắt mờ đi vì máu và mồ hôi ánh lên lá cờ chiến ướt nhẹp máu me, bùn lầy.

Bẻ gãy đuôi mũi tên cắm phập vào bả vai, nơi nơi đều là tuyết, tuyết như ong bướm điên loạn, hắn không nhìn thấy cả hai bên vách núi nữa, ngay cả đầu ngựa của mình cũng không nhìn thấy, chẳng còn biết phương hướng, bên cạnh không ai sống sót.

Hắn nằm rạp người trên lưng ngựa, Đạp Vân Thông kinh sợ hí vang, mạnh mẽ tung người trong cơn tuyết lớn làm trời đất đổ sập. Tất cả các vết thương nứt toác, tim gan nát tan, hắn nắm lấy bờm, lấy yên ngựa, tất cả những gì có thể bám víu, bên eo lạnh toát, thậm chí hắn còn không có cảm giác đau, vũ khí sắc bén xuyên thủng eo nhô ra trước bụng, máu của hắn đông đặc trên chiến giáp, xé rách da thịt. Hắn lạnh như băng, như thi thể, hai tay không nắm được gì nữa, chỉ có thể ôm chặt cổ ngựa, yên ngựa đập vào ngực, máu nóng hộc ra khỏi miệng, đỏ của máu, đỏ của tuyết, đỏ của…

Lửa… Là lửa.

“Qua đó…” Hắn không biết mình có còn đang thúc ngựa hay không, “Qua đó đi… Đạp Vân… Lửa…”

Kinh Pháp Hoa* trên trời xa xăm mà miên man, âm thanh không dứt.

(Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường gọi tắt là kinh Pháp Hoa, là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất. Tương truyền, kinh Pháp Hoa được Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng trên đỉnh núi Linh Thứu trước khi ngài nhập Bát Niết-bàn, tức vào chặng đường cuối của sự nghiệp hoằng hóa chúng sinh.)

... Ta sẽ không chết.

Ta sẽ không bao giờ chết như thế này.



Có người dừng ngựa của hắn, có người gọi tên hắn, có tiếng gió, có tiếng pháo như đêm giao thừa.

Có cái gì đó ấm áp rơi trên khuôn mặt hắn.