Rượu Và Súng

Chương 2



Luật pháp và trật tự an ninh ở thành phố Westland nổi tiếng tệ hại vô cùng.

Mới chỉ qua ba phần tư năm 2016, tỉ lệ tội phạm ở Westland vẫn tăng thay vì giảm và duy trì kỉ lục ấn tượng với trung bình mười vụ xả súng mỗi ngày, chỉ riêng tháng Tám mà đã có đến chín mươi người thiệt mạng, mùa hè còn chưa kết thúc nhưng thành phố đã đạt đến hơn năm trăm vụ giết người.

Ai từng xử lý các vụ án mạng ở Westland đều đã quen với chế độ làm việc ba ca từ lâu, bất kể ngày hay đêm thì bọn họ cũng phải sẵn sàng ‘ra trận’. Nửa đêm bị gọi điện đến hiện trường vụ án là một phần không thể tách rời trong cuộc sống hằng ngày nhàm chán của họ. Vì vậy, khi Albarino Bacchus sặc mùi nước hoa bước ra khỏi chiếc xe Chevrolet, hắn vẫn xem đây như một ngày điều tra thường tình.

Đã hơn ba giờ sáng, hàng rào phong toả được giăng ra bên ngoài một khu rừng tối tăm hoang vắng, những cành lá thưa thớt được ánh đèn vòm của xe cảnh sát phản chiếu đủ màu sắc kì lạ. Cảnh sát Bart Hardy của Sở Cảnh sát thành phố Westland đang canh giữ phía trước hàng rào như một con chó săn với mái tóc dựng ngược, chỉ riêng vẻ ngoài của ông cũng đủ cho thấy có điều gì đó bất thường.

Ngay khi cảnh sát Hardy nhìn lên, ông nhìn thấy giám định viên y tế lành nghề và giàu kinh nghiệm nhất của Cục Pháp y đang đi về phía hiện trường vụ án với nụ cười tươi trên môi, trên tay là hộp dụng cụ, phía sau là chiếc xe thể thao đỏ choé chẳng phù hợp với hiện trường vụ án chút nào. Đầu tóc Albarino rối bù trông như bị ai đó vò, ngay cả chiếc khóa thắt lưng của hắn cũng trông như được cài rất vội.

Hardy đứng ở ngoài khu vực phong toả chờ hắn một hồi, lúc này nhóm nghiên cứu của Đội Điều tra Hiện trường vụ án (Crime Science Investigation – CSI) đang bận rộn như những con ong thợ bên trong hiện trường, lúc này chưa cần đến pháp y vì CSI vẫn đang chụp ảnh và cố định bằng chứng. Albarino vừa đi tới, Hardy lập tức ngửi thấy hỗn hợp kem cạo râu, nước hoa và rượu trên người hắn, điều này khiến viên cảnh sát nhíu mày: “Al, đừng nói cậu đi uống rượu nhé?”

“Gì? Làm gì có.” Pháp y trẻ tuổi mở to mắt như muốn thể hiện mình là một người đàn ông có đạo đức nghề nghiệp: “Nhưng anh đã làm gián đoạn buổi tối tuyệt vời của tôi với hai cô gái xinh đẹp, một buổi tối rất, rất tuyệt vời đấy.”

Đây chỉ là một nửa sự thật: Albarino đã có một buổi tối tuyệt vời nhưng hắn không tán tỉnh mấy cô gái mà lẳng lặng quan sát họ từ xa, bởi lẽ chỉ khi đứng ngoài cuộc thì mới có thể hiểu được bức tranh toàn cảnh. Hắn đã dành hàng giờ để quan sát những cô gái với lớp trang điểm đậm, hắn không thích mùi son phấn và nước hoa, và hắn tin rằng nếu lột bỏ lớp da đó thì bọn họ sẽ càng đẹp đẽ hơn.

Tất nhiên Hardy không biết hắn đang nghĩ gì. Ông nhướng mày, rõ ràng viên cảnh sát chính trực này không muốn biết Albarino đã qua đêm với ai. Đối với ông, chỉ có người không đáng tin cậy này mới dám ra ngoài tán gái mặc dù sớm ngày hôm sau có ca làm. Albarino chắc chắn không thể nghe thấy lời trách thầm của ông ta, và ai cũng biết vị pháp y này sẽ không bao giờ tỏ ra hối lỗi với hành vi của mình.

Albarino tò mò nhìn về phía sau Hardy, giọng điệu vẫn nhẹ nhàng và vui vẻ: “Tôi vào được không?”

Hardy dành vài giây tự hỏi liệu đây có phải là một câu đùa dơ bẩn hay không, ông mong là không phải.

“Chờ người của CSI đi ra trước đi. Hiện trường vụ án có hơi phức tạp, bọn họ chưa chụp ảnh xong thì thôi đừng đi vào giẫm đạp.” Hardy tự động bỏ qua vướng mắc trong lòng và nói tiếp: “Còn phải đợi Olga đến nữa.”

“Olga?” Albarino không khỏi hỏi. Olga Molozer là giảng viên Tâm lí học tội phạm tại Đại học Bang Westland và là cố vấn cho WLPD, đối với những vụ án bình thường thì cô ta không cần ra tay, vậy nên Albarino hỏi: “Anh còn gọi cho chị ấy sao?”

Có vẻ vụ án này nghiêm trọng hơn Albarino tưởng. Khi Hardy gọi hắn đến hiện trường vụ án, ông ta không nói rõ chuyện gì đã xảy ra nên hắn cho rằng đây chỉ là một vụ án mạng bình thường. Đương nhiên, ‘bình thường’ ở đây là những vụ án giết người tàn bạo và đẫm máu, nhưng đây là cuộc sống hằng ngày của giám định viên y tế trưởng.

Lúc này, viên sĩ quan với quầng thâm dưới mắt thở dài mệt mỏi và nói bằng giọng điệu mọi người đều quen thuộc: “Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland.”

Albarino cũng hiểu ra rồi.

‘Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland’ là một kẻ giết người hàng loạt. Nói chính xác hơn, có hai kẻ giết người hàng loạt phạm tội ở thành phố Westland nhưng chưa bao giờ bị bắt: Một là Nghệ Sĩ Dương Cầm mà Hardy đã đề cập, một người khác là Người Làm Vườn Chủ Nhật thích đặt hoa trên xác chết.

Bởi vì Nghệ Sĩ Dương Cầm phạm tội bằng thủ đoạn tàn ác, người chết đều là những tên tội phạm nên giới truyền thông yêu thích gã ta. Bọn họ ưu ái gọi gã là ‘kẻ giết người hàng loạt số một ở Westland’.

Tất nhiên theo quan điểm cá nhân của Albarino, Nghệ Sĩ Dương Cầm cùng lắm là đứng thứ hai. Một số sát nhân thích hành hạ người sống, một số khác thích phanh thây người chết nhưng chúng ta không thể cho rằng kẻ thích tra tấn người sống biến thái hơn kẻ còn lại nhỉ?

Hardy rõ ràng là không thể biết trong lòng Albarino có một bảng xếp hạng những kẻ giết người hàng loạt. Viên cảnh sát có vẻ mặt buồn bã, mái tóc của ông ta dường như mỗi giây lại bạc đi vì những kẻ giết người hàng loạt đẫm máu này, ông nói với Albarino: “Tôi tăng ca ở văn phòng đến tận sáng, trước khi tan làm, tôi phát hiện Nghệ Sĩ Dương Cầm đã bỏ một lá thư vào hộp thư của tôi.”

Chuyện là thế này, Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland là một kẻ tâm thần thích gửi thư cho cảnh sát sau khi gây án để thông báo vị trí phạm tội của mình. Đây đúng là kiểu tự tin mù quáng và thái quá, nhưng dù vậy thì người đàn ông này vẫn chưa bao giờ bị bắt.

Albarino có thể dễ dàng tưởng tượng viên cảnh sát đáng kính của họ đã làm gì sau khi nhận lá thư viết thư đầy tự phụ này. Ông ta nhảy ra khỏi ghế văn phòng, chửi thề và gọi điện cho mọi người.

Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland nổi tiếng với việc gửi thư cho cảnh sát. Kể từ khi kẻ giết người hàng loạt này bắt đầu phạm tội, bọn họ đã nhận được rất nhiều thư từ những kẻ bắt chước hoặc thư tự xưng là fan hâm mộ của tên sát nhân. Tuy nhiên, bọn họ chưa bao giờ công khai bút tích của Nghệ Sĩ Dương Cầm, và Hardy chỉ cần nhìn thoáng qua cũng có thể nhận ra nét chữ đặc biệt của gã.

Mỗi lá thư từ Nghệ Sĩ Dương Cầm đều uy tín vô cùng, bọn họ chắc chắn sẽ tìm thấy thi thể ở nơi gã ta chỉ đường dẫn lối. Về mặt này, những cảnh sát có một niềm tin trớ trêu vào kẻ giết người hàng loạt. Albarino nhìn vào màn đêm mờ ảo giữa rừng cây, thỉnh thoảng nhìn thấy bộ quần áo bảo hộ màu xanh của các giám định viên dấu vết và những chùm đèn pin vụt qua.

“Anh có tìm thấy gì không?” Albarino hỏi và nhìn vào bóng tối với vẻ thích thú.

“Vẫn vậy thôi. Một nhóm người trong văn phòng đang cố gắng tìm hiểu xem gã gửi lá thư đó bằng cách nào nhưng tôi nghĩ khả năng tìm ra cũng không cao lắm.” Hardy mệt mỏi trả lời. Nghệ Sĩ Dương Cầm gây ra khoảng ba, bón vụ án mỗi năm, và gã đã liên tục làm như thế từ khi Albarino bắt đầu làm việc thế nhưng bọn họ chưa bao giờ tìm được địa chỉ nơi lá thư xuất phát. “Thi thể bên trong… Nát đến hoàn toàn không thể nhận ra. Phòng thí nghiệm đang đối chiếu DNA, rất nhanh sẽ biết nạn nhân là ai.”

Nghệ Sĩ Dương Cầm thực sự rất ngọt ngào và chu đáo, mỗi nạn nhân của gã đều có tiền án nên thật dễ dàng để xác định danh tính của bọn họ. Khác với gã, một số nạn nhân của Người Làm Vườn Chủ Nhật – kẻ sát nhân biến thái nổi tiếng khác ở thành phố Westland – cho đến nay vẫn chưa được xác định danh tính.

Nghĩ tới đây, Albarino lộ ra một nụ cười giễu cợt.

Thật đấy, mục đích là gì vậy? Giết kẻ có tội có tốt hơn giết người vô tội không? Thôi nào, mày đã là một kẻ giết người tâm thần rồi cơ mà. Lựa chọn giết những tên tội phạm chưa nhận hình phạt thích đáng chẳng qua là để mày cảm thấy mình cao hơn luật pháp và các cơ quan thực thi pháp luật, đồng thời là kẻ trừng phạt toàn năng và thông tuệ thôi. Albarino có lẽ hiểu lí do của hành vi này, nhưng hắn nghĩ đó là một kiểu kiêu ngạo nhàm chán.

Cảnh sát Hardy không nhìn thấy nụ cười lạnh lùng trên môi hắn. Cuộc vui kết thúc vì tiếng ồn của một chiếc ô tô khác chạy ra khỏi lề đường chính, với tiếng bánh xe lăn trên lớp đất và lá mục nát, cố vấn Olga Molozer của WLPD xuất hiện.

Trên thực tế, đối với những vụ án lớn như Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland, việc nhờ chuyên viên lập hồ sơ của Đơn vị Phân tích hành vi (Behavioral Analysis Unit – BAU) đến giúp đỡ là lựa chọn thích hợp, nhưng theo như Albarino biết thì WLPD chưa từng nhờ đến sự giúp đỡ từ FBI vì nguyên nhân cực kì phức tạp. Hardy sau khi tiếp quản những vụ án tương tự cũng đã từng nộp đơn cho cấp trên nhưng tất cả đều bị từ chối. Đối với những vụ án này, niềm an ủi duy nhất của bọn họ là chí ít bọn họ vẫn còn có Olga.

Nhắc tới ‘lập hồ sơ’ thì có hai khái niệm là ‘hồ sơ hành vi phạm tội’ và ‘hồ sơ tâm lí’. Hồ sơ hành vi phạm tội (criminal profiling) được thực hiện bởi những nhà tội phạm học (criminologist) để tìm hiểu nguyên nhân, động cơ, v.v. và từ đó tìm ra hướng để ngăn hành vi phạm tội. Hồ sơ tâm lí (psychological profiling) được thực hiện bởi những nhà tâm lí học tội phạm (criminal psychologist) để điều tra suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của tội phạm. Trường hợp này là hồ sơ tâm lí.

Olga Molozer bắt đầu làm cố vấn cảnh sát khoảng ba năm trước. Cô từng là thành viên của Đơn vị Phân tích hành vi, nhưng vì một số lý do, cô đã nghỉ việc tại FBI và đến Đại học Bang Westland để giảng dạy. Cô ấy là một cô gái tóc nâu xinh đẹp, cực kì nóng bỏng, thậm chí trông hơi giống Alicia Vikander ở một số khía cạnh nhất định.

Hardy rõ ràng đã chờ đợi đến mất kiên nhẫn. Ngay khi Olga bước ra khỏi xe và bước một chân qua lớp lá rụng mềm mại, Hardy đã kéo chốt chặn lên và ra hiệu cho cô chui xuống. Olga không quên nở một nụ cười với Albarino khi bước đến: “Này Al, buổi tối ngủ mấy tiếng vậy?”

Không ai chỉ ra rằng Olga dường như đang mặc một bộ đồ ngủ bằng lụa bên dưới chiếc áo gió, hẳn cô đã bị đánh thức khỏi giường bởi một cú điện thoại từ Hardy. Albarino mỉm cười với cô: “Có ngủ đâu, tôi đã lên rất nhiều kế hoạch cho đêm nay.”

Hardy – người duy nhất thực sự làm việc đến khuya – khịt mũi. Ông dẫn họ đi xuyên qua khu rừng, thấy CSI đang bận rộn, ông hiển nhiên không có ý định tiếp tục hàn huyên với bọn họ mà trực tiếp nói: “Khu rừng này là vườn cây ăn quả của một trang trại gần đây, mấy cây này sinh trưởng không tốt lắm nhưng có vẻ đều là cây ăn quả.”

Lần này, Albarino nhìn kĩ vào lá cây, cây đã bị hái trụi quả nhưng hắn vẫn nhận ra: “Phải cây táo không?”

Hardy khịt mũi, những người khác ngay lập tức biết tại sao Hardy lại nhấn mạnh đây là một vườn cây ăn quả. Bọn họ dần tiếp cận thi thể, khắp nơi là các bằng chứng vật lí được đánh dấu màu vàng nổi bật. Dựa vào những gì họ biết về Nghệ Sĩ Dương Cầm, gã là một người vô cùng thận trọng, CSI hẳn là không thể lấy được vết máu hoặc dấu chân có giá trị từ hiện trường vụ án.

Bao quanh bởi đống nhãn đánh dấu vật chứng là kiệt tác mới nhất của Nghệ Sĩ Dương Cầm: Tứ chi của xác chết dang ra theo hình chữ thập, thân thể được cố định trên mặt đất bằng một cọc gỗ cao; bọn họ chưa biết liệu nạn nhân được cố định vào cọc hay bị cọc xiên qua như một con châu chấu. Máu khô thấm đẫm toàn bộ phần dưới cơ thể của nạn nhân, trên đầu xác chết là một chiếc mũ rơm, môi bị dao rạch thành một nụ cười lớn và đường khâu lại bằng những mối nối thô kệch. Trông nạn nhân giống như một con bù nhìn rơm.

Nói cho đúng hơn thì nạn nhân chính là một con bù nhìn rơm.

“Chúa ơi…” Olga lẩm bẩm: “Thật tuyệt vời.”

Không ai nhắc nhở rằng cô nói thế thì chẳng khác gì mấy kẻ sát nhân chống đối xã hội.

Albarino nhìn ‘bù nhìn rơm’ và khẽ cau mày. Nạn nhân trông quen quen, nhưng vì khuôn mặt bê bết máu nên hắn nhất thời không nhớ ra mình đã gặp ở đâu.

Người đứng đầu CSI, Bates Schwandner, đang đứng dưới con bù nhìn, đeo găng tay cao su và một chiếc camera quanh cổ để chụp hình bằng chứng. Nghe tiếng bước chân, ông quay đầu nhìn về phía Albarino: “Bọn tôi thu thập xong chứng cứ rồi, có thể mang thi thể xuống.”

Bates không ngạc nhiên khi thấy họ ở đây, dù sao thì trước giờ họ vẫn luôn tham gia vào những vụ án như vậy. Trong những năm đầu, cảnh sát Hardy rất tin tưởng vào việc bắt được những tên sát nhân biến thái đang hoành hành trong thành phố, số ít những người tham gia điều tra đều là ‘những người giỏi nhất’ của các phòng ban. Hôm nay, bạn cũ gặp lại nhau trong một khung cảnh quen thuộc, nếu Albarino đoán đúng thì hôm nay vẫn là một ngày bình thường.

Khóe miệng của cảnh sát Hardy căng thẳng, ông ta chỉ đạo các sĩ quan đặt thi thể xuống. Albarino đeo găng tay vào và nghiêng người về phía trước. Xác chết này vẫn sẽ được chuyển đến văn phòng pháp y để khám nghiệm thêm nhưng vẫn phải quan sát tình trạng của xác chết tại hiện trường. Công việc điều tra tại chỗ thường là của giám định viên kĩ thuật hình sự, nhưng vụ án của Nghệ Sĩ Dương Cầm nghiêm trọng đến mức yêu cầu giám định viên pháp y bệnh học có giấy phép phải đích thân đến hiện trường.

Albarino cởi chiếc mũ rơm rách nát trên đầu người chết, Olga cúi xuống bên cạnh họ và nhìn chằm chằm vào chiếc mũ với vẻ thích thú, có lẽ cô cảm nhận được khiếu hài hước biến thái của kẻ giết người từ đây. Sau khi khuôn mặt của người quá cố lộ ra, cảnh tượng càng thêm rùng rợn: Ngoài vết khâu nụ cười trên mặt, ‘bù nhìn’ còn có hai chiếc cúc áo lớn được may thẳng vào mắt.

Albarino hít một hơi lạnh từ cổ họng khi nhìn vào khuôn mặt khủng khiếp này. Ngược lại, Bates vẫn giữ im lặng, áp thước đo tỉ lệ vào má của nạn nhân với vẻ mặt lạnh lùng, đồng thời giơ máy ảnh lên chụp ảnh khuôn mặt của người chết.

Albarino đợi cho đến khi Bates kiểm tra xong khuôn mặt của người quá cố rồi mới tập trung vào các vết thương và vết khâu. Những ngón tay hắn sượt qua những đường gờ thô ráp siết chặt quanh mép vết thương sưng tấy. Hắn nghi ngờ Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland có tài may vá rất đẹp, và rằng gã đã may khuôn mặt này một cách thô bạo để bắt chước vẻ xù xì của bù nhìn rơm, thật là một khiếu hài hước méo mó.

“Có phản ứng sống ở mép vết thương,” Albarino chỉ ra: “Nạn nhân còn sống khi kẻ sát nhân rạch và khâu mặt anh ta lại, hình như đến khi bị khâu cúc áo vào mí mắt thì cũng còn sống.”

“Giống hệt như Nghệ Sĩ Dương Cầm thích tra tấn nạn nhân khi còn sống hơn là sắp xếp hiện trường sau khi gây án. Gã ‘trang trí’ cho nạn nhân khi người ta vẫn còn sống.” Olga nhận xét.

“Tôi khá chắc chắn rằng kẻ giết người là Nghệ Sĩ Dương Cầm, Olga.” Cảnh sát Hardy lạnh lùng nói sau lưng họ: “Tôi không bao giờ nhầm chữ viết tay của gã.”

“Chúng tôi tin tưởng anh, Bart.” Olga ngọt ngào dỗ dành và định xoa dịu sự lo lắng của ông: “Nhưng bản thân vụ án vẫn phải tuân theo thủ tục.”

Mặc dù Olga nói đúng nhưng Albarino vẫn chắc chắn rằng vụ án trước mắt nhất định là do Nghệ Sĩ Dương Cầm gây ra. Hắn nhanh chóng kiểm tra khuôn mặt đẫm máu của người đã khuất, về đến Cục Pháp y rồi phải rửa sạch vết máu trên mặt nạn nhân để xem anh ta trông như thế nào.

“Có thể thấy tên sát nhân khâu từ phải sang trái. Nhìn vào thứ tự các mũi khâu này,” Albarino dùng cái nhíp gõ nhẹ vào một trong những sợi chỉ: “Nghệ Sĩ Dương Cầm thuận tay trái phải không?

Trước đó CSI đã tiến hành phân tích chữ viết trên các bức thư Nghệ Sĩ Dương Cầm gửi cho cảnh sát, dựa theo độ mạnh tay của chữ viết, bọn họ xác định thư được viết bởi một người thuận tay trái, điều này cũng có thể được chứng minh thông qua các vết dao trên các xác chết trong các vụ án cũ. Nghệ Sĩ Dương Cầm chắc chắn thuận tay trái.

Hardy phát ra một loạt tiếng càu nhàu giận dữ sau lưng họ, rõ ràng là mọi thứ không như ông ta mong đợi. Albarino và Bates tiếp tục giám định thi thể, nếu cần thiết thì sau khi Albarino trở về Cục Pháp y, Bates cũng sẽ tham gia khám nghiệm, có khi bọn họ phải mang quần áo của người chết về phòng thí nghiệm CSI để tiến hành kiểm tra. Nhiều năm qua, bọn họ vẫn luôn hi vọng rằng Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland có thể để lại dấu vân tay và DNA có thể trích xuất được trên quần áo của nạn nhân, nhưng thật không may, Nghệ Sĩ Dương Cầm lần nào cũng khiến họ thất vọng.

Cơ thể của người quá cố còn kinh hoàng hơn bởi lẽ anh ta không bị trói vào cọc mà bị nó xuyên thẳng qua người. Chiếc cọc gỗ vót nhọn đâm qua lưng, mũi cọc khoét vào ngực nạn nhân, người làm được điều này phải có sức lực phi thường. Albarino cẩn thận cởi bỏ quần áo trên ngực người chết, nơi chiếc cọc đâm xuyên có rất nhiều máu.

Sau khi nới lỏng cổ áo, hắn vẫn có thể nhìn thấy một vết thắt cổ mỏng, đỏ và sưng tấy trên cổ của người quá cố.

“Anh ta vẫn còn sống khi bị hung thủ đâm thứ này đâm vào người. Suy đoán sơ bộ của tôi là nạn nhân gần như đã chết vì mất máu ở vị trí bị cọc gỗ đâm.” Albarino tặc lưỡi vài lần trước khi nói, điều này có vẻ hơi bất kính: “Nhưng trên thực tế, nguyên nhân cái chết của anh ta hẳn là do ngạt thở cơ học. Nhìn vết siết cổ này, xuất huyết dưới da cho thấy anh ta vẫn còn sống khi bị hung thủ siết cổ bằng thứ gì đó. Dĩ nhiên, cho dù hung thủ không siết cổ thì vài phút sau anh ta cũng phải chết do mất máu thôi, quan trọng là sớm hay muộn.”

“Đây là M.O. của Nghệ Sĩ Dương Cầm.” Olga chống cằm nhận xét, cô ấy có vẻ đang thích thú: “Việc siết cổ thực sự không cần thiết đối với toàn bộ quá trình giết người nhưng rõ ràng là nó quan trọng đối với kẻ sát nhân. Dù gã có hung bạo với người chết đến đâu thì cuối cùng nạn nhân cũng phải chết vì ngạt thở.”

Albarino liếc nhìn Olga, thái độ của hai người tương đối thoải mái, bọn họ thực sự nên suy nghĩ lại. Hắn ho khan một tiếng và trở nên nghiêm túc hẳn lên: “Gã là một kẻ tàn bạo.”

“Một số người cho rằng gã chọn tội phạm làm nạn nhân của mình vì tức giận và trả thù. Thực ra tôi không nghĩ vậy, chúng ta có thể viết một luận văn dựa trên điều này đấy.” Olga nhún vai và đổi tư thế ngồi vì mỏi chân, cô chống tay xuống đất một cách khó khăn: “Nhưng dù thế nào thì ừ, đúng là gã nhận được niềm vui vô đạo đức từ việc tra tấn và bóp cổ người khác, và chính cuộc tìm kiếm niềm vui này đã biến gã thành một kẻ giết người hàng loạt.”

Đúng là không có ‘gu’, Albarino không khỏi bình luận trong lòng.

Đúng lúc này, điện thoại di động của cảnh sát Hardy lại vang lên. Ông đứng nói chuyện điện thoại đằng sau họ vài phút, đây là một cuộc trò chuyện gồm rất nhiều ừ hử và những mệnh lệnh ngắn gọn cho các cảnh sát. Sau đó, cảnh sát Hardy nghiến răng đặt điện thoại xuống và nói: “Xác nhận là gã ta rồi.”

“Đã tìm ra danh tính của nạn nhân sao?” Bates là người đầu tiên lên tiếng, nếu tra ra được người chết lại là một tên tội phạm thì gần như có thể khẳng định vụ án là do Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland gây ra.

“Ừ.” Cảnh sát Hardy vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào khuôn mặt bê bết chỉ khâu và cúc áo của người đàn ông đã chết: “Người đàn ông này là anh trai lớn của anh em nhà Norman, Richard Norman, là ‘Anh Em Norman’ đó.”

Olga hừ một tiếng, hiển nhiên cô nhớ tới cái gì đó: “Anh Em Norman trùm xã hội đen ở cuối bờ tây Westland ấy à?”

Và khi Albarino nghe thấy cái tên đó, hắn sững sờ trong giây lát.

Bây giờ hắn mới biết tại sao người chết lại trông quen như vậy. Đống máu đông trên mặt và mớ cúc áo với vết khâu lộn xộn đã phá hủy hoàn toàn khuôn mặt của anh ta, và bộ đồ bù nhìn rơm chắp vá rộng thùng thình đã thay đổi hình dáng của anh ta khiến Albarino không nhận ra người này.

Trên thực tế, hắn đã theo dõi tên Richard Norman này từ lâu. Ba tháng nay, hắn vừa bận rộn với công việc pháp y, vừa theo dõi người này, trong đầu liên tục tìm cách biến thi thể anh ta thành tác phẩm mới của mình. Hắn nghĩ thằng đàn ông này chẳng có đóng góp gì cho xã hội (ngoại trừ góp thêm mấy con nghiện ma tuý) thì ít nhất có thể là một phần của sáng tạo nghệ thuật. Albarino lẽ ra đã làm điều đó từ hai tuần trước nếu gần đây không có quá nhiều vụ xả súng.

Hắn lại quay sang khuôn mặt bù nhìn đang tươi cười của người chết. Đối với Albarino, anh ta không còn là một xác chết, không còn là một miếng thịt thối rữa. Giờ đây, trong mắt Albarino – hay đúng hơn là trong mắt của kẻ giết người tâm thần nổi tiếng Người Làm Vườn Chủ Nhật, anh ta là một cục sơn trắng to tướng đã bị người ta lấy ra khỏi bảng màu. Đây chính nỗi đau sâu sắc nhất trong trái tim mỗi người nghệ sĩ.

Ba tháng theo dõi và đống bản thảo kế hoạch của hắn đã bị phá hủy, tất cả vật liệu hắn đã mua vẫn chất đống trong nhà kho nhỏ phía sau nhà gỗ phủ đầy bụi.

Trong một khoảnh khắc dài, Albarino chợt nghĩ một cách mỉa mai: Liệu đây có phải là ‘đạo văn’ không?