Rượu Và Súng

Chương 4



Khi Albarino và Olga đến Sở cảnh sát Westland, ánh mặt trời trắng sữa một lần nữa chiếu xuống đường phố. Nơi đây lẫn lộn thứ mùi đồ ăn từ cửa hàng tiện lợi, cà phê kém chất lượng và sự mệt mỏi toả ra từ mỗi con người. Bước vào toà nhà này là cảm nhận được ngay thực thể của hai từ ‘tuyệt vọng’.

Hai người bọn họ đến đây để giao báo cáo khám nghiệm tử thi cho cảnh sát Hardy. Albarino mất năm tiếng đồng hồ để vật lộn với thi thể đầy những vết thương khác nhau, Bates về phòng thí nghiệm CSI với hàng tá túi vật chứng. Bọn họ hẳn sẽ không gặp lại nhau trong thời gian tới trừ phi Bates tìm ra được dấu vân tay có giá trị pháp lí trên những mảnh quần áo.

Các chuyên gia về dấu vân tay sẽ đưa ra kết luận liệu dấu vân tay được tìm thấy tại hiện trường vụ án có khớp với dấu vân tay của bị can hay không trên cơ sở các điểm trùng nhau. Hiện tại, không có tiêu chuẩn chung về điểm trùng nhau giữa các quốc gia. Ví dụ, Anh không có tiêu chuẩn này vì cơ quan pháp luật tại đây cho rằng việc xác định xem liệu có đủ cơ sở để xác định danh tính hay không phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của nhân viên giám định. Một số quốc gia khác thì đưa ra số điểm trùng nhau tối thiểu để xác định liệu dấu vân tay có giá trị pháp lí hay không, ví dụ như Úc là 12 điểm, Pháp và Italy là 16 điểm.

Bây giờ, toàn bộ đồn cảnh sát đầy những cảnh sát đã thức trắng đêm để nghiên cứu vụ án mới của Nghệ Sĩ Dương Cầm. Albarino và Olga mua mỗi người một chiếc sandwich ở máy bán hàng tự động trên đường để giải toả cơn đói, vỏ bánh lạnh ngắt và bơ đậu phộng nhạt nhẽo dường như vẫn dính chặt vào vòm miệng bọn họ.

Albarino phải thú nhận rằng cho dù ở tuổi này thì đứng dưới đèn phẫu thuật cả đêm mà không ngủ vẫn khiến hắn váng đầu. Hardy đang đi về phía hắn trông còn tệ hơn: Đôi mắt đầy tia máu, quầng thâm dưới mắt lan ra như vũng máu ở hiện trường vụ án.

“Al…” Ông ta nói một cách mạnh mẽ và tràn đầy năng lượng: “Cậu đã tìm thấy gì?”

“Kẻ giết người lấy trái tim của nạn nhân ra, sau đó bỏ một quả táo vào giữa xương sườn và rải một nắm lúa mì vào khoang bụng người chết.” Albarino vừa nói vừa nhét bản báo cáo vào tay cảnh sát Hardy, ảnh chụp sẽ được Bates gửi đến Sở Cảnh sát sau. Người đàn ông đáng thương này đã lấy nắm lúa mì đẫm máu đi, mong là hôm nay ông ta vẫn có thể ăn ngon miệng.

Olga nhẹ nhàng tiếp lời hắn: “Những ‘đạo cụ’ gã chọn rất thú vị nhưng tôi không hiểu tại sao gã lại chọn chúng… Chắc ý của gã chỉ là bù nhìn rơm thôi nhỉ? Canh giữ vườn cây ăn quả và cánh đồng lúa mì ấy? Tôi chưa tìm ra ý nghĩa cụ thể của những thứ này nhưng đây đúng là vụ án của Nghệ Sĩ Dương Cầm.”

Không, Albarino thầm trả lời. Táo và lúa mì mang ý nghĩa ẩn dụ, Nghệ Sĩ Dương Cầm sử dụng những ‘đạo cụ’ này để truyền tải thông điệp của mình. Ở thời điểm hiện tại thì bọn họ vẫn chưa chắc nhưng đây có thể là một bản án dành cho tội ác của nạn nhân.

Đây dường như là một kiểu kiêu ngạo lạnh lùng, gã đặt mình vào vị trí của Chúa có quyền phán xét người khác. Điều này khá phù hợp với chân dung kẻ sát nhân mà những nhà tội phạm học đã phác hoạ từ trước.

Nhưng hắn không nói ra ý kiến của mình, hắn chưa điên đến mức vội vã đưa ra kết luận trước mặt những nhà tâm lí học tội phạm chân chính, nếu không thì hắn phải đối mặt với những câu hỏi thế nào đây? “Này Al, anh vui lòng cho chúng tôi biết anh đã làm thế nào để đoán ra được suy nghĩ của kẻ giết người này không?” “À, không khó lắm đâu vì tôi có thể xem xét vụ án này bằng quan điểm của một kẻ tâm thần.”

Quên đi, hắn cười mỉa trong lòng. Thấy người khác hiểu sai tác phẩm của một kẻ giết người hàng loạt khác đúng là một trải nghiệm sung sướng của kẻ bề trên.

“Tôi không nghĩ mấy thứ này ‘thú vị’.” Cảnh sát Hardy nhìn Olga với vẻ không hài lòng. Nếu Olga là cấp dưới của ông ta thì có lẽ bây giờ cô ta phải cắn răng xin lỗi rồi.

“Vì cách chúng ta nhìn nhận vấn đề này không giống nhau.” Olga trả lời với một nụ cười.

Albarino không muốn bị mắc kẹt trong cuộc thảo luận vô nghĩa về giá trị đạo đức, nếu hôm nay không có gì thú vị thì hắn thà về nhà và đánh một giấc sau khi đã đưa báo cáo khám nghiệm tử thi. Sáng nay hắn phải đổi ca với một người khác vì vụ án đêm qua.

“Anh có gì mới không, Bart?” Vì vậy hắn hỏi và cố tỏ ra dửng dưng.

“Bọn tôi đang tái hiện lại hành vi của Norman trước khi bị giết, đồng thời liên lạc với những người có liên hệ với Norman lúc anh ta còn sống với hy vọng bọn họ có thể cung cấp cho chúng ta một số manh mối.” Cảnh sát Hardy gật đầu, đây có lẽ là vì sao ông ta mệt mỏi như vậy. “Bọn họ đang lấy lời khai, hai người muốn nghe không?”



Các cảnh sát tham gia vụ án Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland đều trông mệt mỏi vô cùng. Nghe Albarino gọi nạn nhân bằng biệt danh ‘Norman Bự’, Hardy lập tức nhắc nhở hắn với vẻ mặt cay đắng rằng tên thật của người chết là Richard Norman – trùm xã hội đen khét tiếng ở thành phố Westland.

Điều này có nghĩa là tất cả những người có liên hệ với anh ta khi anh ta còn sống đều là thành viên băng đảng, thuyết phục những người này đến đồn cảnh sát để khai báo không dễ dàng gì. Khi Albarino đi theo cảnh sát Hardy đến phòng thẩm vấn, hắn thấy các nhân chứng trông chẳng ngán gì ai đang chờ để được lấy lời khai.

Hầu hết là những người đàn ông cao to, vạm vỡ với hình xăm trên cánh tay. Băng nhóm Anh Em Normans có gốc gác Latin nên nhiều người có gương mặt ngoại quốc. Trong số những kẻ xã hội đen này, có hai cô gái ngang ngạnh với nước da ngăm đen và… Một người đàn ông mặc suit vô cùng bảnh bao?

Sự tương phản này rõ ràng đến mức giống như giữa mấy quả dừa có một bộ óc người đẫm máu – xin thông cảm cho cách so sánh khiếm nhã của Albarino. Hắn quan sát người đàn ông mặc bộ quần áo đắt tiền, hẳn là bộ suit đặt may thủ công, gã bình tĩnh đứng giữa mấy kẻ đang nhỏ giọng chửi bới, thỉnh thoảng lại nhìn xuống đồng hồ như đang mất kiên nhẫn.

Đó là một người đàn ông trung niên điển trai với mái tóc vàng xen lẫn mấy sợi bạc được cắt tỉa cẩn thận. Chẳng hiểu sao trông gã khá bẩn tính, có lẽ là do đôi môi mỏng, nước da sáng, màu mắt và mái tóc đã tạo nên ấn tượng này.

“Có một quý ông trông có vẻ lạc lõng giữa đám người này.” Olga nhìn theo ánh mắt của Albarino và nhàn nhã nhận xét: “Dựa trên kinh nghiệm chọn bừa đáp án kiểm tra trắc nghiệm ở Quantico thì tôi chọn anh ta là hung thủ.”

Học viện đào tạo FBI – nơi huấn luyện những hàng ngũ thám tử hàng đầu nước Mỹ – tọa lạc tại Quantico trong một khu vực rừng cây yên tĩnh phía bắc Virginia. Trụ sở chính của Đơn vị phân tích hành vi BAU cũng ở Quantico.

“Olga!” Sĩ quan Hardy gắt lên vẻ không tán thành.

Olga thờ ơ mỉm cười và nhanh chóng theo bước chân của hai người kia. Albarino cũng muốn cười nhưng Hardy sẽ rất tức giận nếu hắn làm thế, vì vậy hắn cố gắng nhịn.

Quá trình thẩm vấn nhàm chán giống hệt suy nghĩ Albarino. Những nhân chứng được triệu tập lần này đều đã tiếp xúc với Norman trong vòng hai mươi bốn tiếng trước khi anh ta chết, hơn nữa bọn họ đều là tôi tớ trung thành của Norman Bự.

Hầu hết mọi người khịt mũi khi nghe câu hỏi ‘anh ta có kẻ thù nào không’ vì rõ ràng Norman Bự là một tay xã hội đen, khắp nơi đều là kẻ thù của anh ta. Bản thân Hardy cũng không mong đợi bất kỳ kết quả nào từ câu hỏi này nhưng đây là thủ tục cần thiết. Ông ta xác định hung thủ là Nghệ Sĩ Dương Cầm nên câu hỏi này vô nghĩa cực kì. Hardy nghĩ kẻ sát nhân chắc chắn không nằm trong số những nhân chứng này, và gã chắc chắn không phải kẻ thù của người chết.

Đến nay bọn họ vẫn không biết Nghệ Sĩ Dương Cầm chọn con mồi của mình dựa theo những tiêu chí nào.

Trong quá trình thẩm vấn, có một người được cảnh sát Hardy đặc biệt chú ý – em trai của Norman Bự, thủ lĩnh khác của băng đảng Thomas Norman.

“Anh Norman.” Cảnh sát Hardy thận trọng hỏi, ông đặt hai tay lên bàn và đan tay vào nhau thành hình tháp: “Từ tám giờ đến mười hai giờ tối qua anh ở đâu?”

“Tôi ở với bạn gái, cô ta đang chờ tới lượt thẩm vấn bên ngoài kìa, tóc đen ngực siêu bự ấy.” Thomas Norman cười nhếch mép và làm một động tác tán tỉnh: “Sao nào anh cảnh sát? Anh nghi ngờ tôi giết anh trai mình à?”

Trung sĩ Hardy nhìn nó chằm chằm: “Trông anh không buồn lắm vì cái chết thảm khốc của anh trai.”

Thomas Norman giật khóe miệng và nở một nụ cười hung ác: “Không có gì đáng ngạc nhiên nhỉ? Tôi hiểu rõ thủ tục xử lí những vụ án này, cũng biết cảnh sát mấy người sẽ hỏi cái gì nên để thôi nói thẳng nhé. Đúng là anh trai tôi có khá nhiều kẻ thù, bọn tôi có bao nhiêu tài sản là có bấy nhiêu kẻ thù nhưng một số người sẽ nói kẻ thù lớn nhất của anh ta là tôi.”

“Anh đang thừa nhận rằng quan hệ của hai người không tốt sao?” Hardy nhướng mày.

“Anh cứ hỏi mấy người khác thử đi, bọn họ cũng sẽ nói như vậy thôi.” Thomas Norman nhún vai một cách thờ ơ: “Anh trai tôi là một kẻ hèn nhát, anh cảnh sát à. Anh biết đấy, gần đây chúng tôi bất đồng quan điểm với nhau trong một số vấn đề.”

Cảnh sát Hardy khịt mũi, ông ta biết tỏng chuyện ‘bất đồng quan điểm’ này. Nó đã dẫn đến một cuộc chiến băng đảng gồm năm mươi người hồi ba tuần trước, những tên khốn đó xả hàng trăm viên đạn giữa thanh thiên bạch nhật trên đường phố.

“Ý anh là anh chịu trách nhiệm về vụ nổ súng ba tuần trước?” Hardy cao giọng.

“Không, tôi không có ý này.” Thomas Norman cười: “Ý là chúng tôi đã gặp một số vấn đề với ‘đối tác kinh doanh’ và thằng anh trai tôi đã lo liệu việc này một cách liều lĩnh và yếu đuối, nó gần như đã huỷ hoại công ăn việc làm của bọn tôi. Vì vậy, nếu anh hỏi về ‘kẻ thù’ ấy à… Nhiều người sẽ kể với anh rằng anh em chúng tôi bây giờ như nước với lửa, bọn nó sẽ nói chúng tôi cãi nhau, ném đồ đạc vào nhau và doạ giết lần nhau.”

Hardy lặng lẽ nhìn nó: “Nhưng?”

“Nhưng tôi không giết nó.” Thomas Norman giả bộ đứng lên và vuốt thẳng cổ tay áo: “Đương nhiên, tôi rất vui vì Rick thân yêu đã chết. Chẳng phải con người tự giác nhất ở khả năng chết đúng thời điểm sao? Nào, nếu anh không cần còng tay tôi lại thì tôi phải đi giải quyết một số… Anh biết mà, vấn đề kinh doanh. Nếu anh có thêm câu hỏi thì luật sư của gia đình tôi tình cờ nằm trong danh sách nhân chứng nhân chứng, cứ nói với anh ta là được.”

Anh chàng nháy mắt với Hardy và vênh váo bước ra ngoài.

“Thằng khốn hợm hĩnh.” Bên kia tấm kính một chiều trong phòng thẩm vấn, Albarino đang quan sát khung cảnh lấy lời khai và thấp giọng nhận xét.

“Nó không phải hung thủ.” Olga nhún vai và nói nhỏ: “Nhìn vẻ tự mãn của nó thì cùng lắm nó chỉ tự cao tự đại thôi. Nó không phải người tốt nhưng cũng không phải một kẻ giết người biết thái như Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland. Tất nhiên, nếu hung thủ không phải Nghệ Sĩ Dương Cầm thì tôi là người đầu tiên nghi ngờ nó cho người giết anh nó đấy.”

Albarino gật đầu tán thành. Hắn ấn đầu ngón tay lên mặt kính lạnh và nhìn Hardy kiệt sức gọi người cuối cùng vào. Bọn họ đã hỏi khắp nơi nhưng không tìm được gì, không ai để ý Richard Norman đã đi đâu, anh ta đã gặp ai trước khi biết mất, cũng không ai thấy nhân vật khả nghi nào xuất hiện bên cạnh Norman.

Sự mệt mỏi của Hardy thể hiện ở tư thế ngồi hơi cong nhưng ông ta nhanh chóng ngồi dậy khi người đàn ông cuối cùng bước vào.

Người cuối cùng này chính là người đàn ông mặc suit chỉnh tề, và giờ thì Albarino đã biết tại sao gã ta trông xấu tính như vậy. Trông gã chẳng khác gì mấy tay luật sư ưu tú khốn nạn bước ra khỏi TV và cản trở cơ quan thi hành công vụ.

Nhìn vào sự thật đi, ‘gu’ khách hàng của gã tệ thật đấy.

Người đàn ông có vẻ ngoài lịch sự ngồi đối diện với Hardy trông giống như một vết bẩn hào nhoáng trong phòng thẩm vấn bài trí đơn giản. Hardy liếc nhìn tập hồ sơ trước mặt và hỏi: “Anh Armalight, anh làm luật sư cho Anh em nhà Norman được bao lâu rồi?”

“Từ khoảng năm, sáu năm trước hồi tôi mới mở công ty.” Luật sư hơi ngả người về phía sau trả lời, gã thản nhiên ngồi ở trên ghế, thậm chí còn có thời gian để nở một nụ cười hờ hững và lễ độ.

“Ồ.” Olga thì thầm.

“Sao vậy?” Albarino không thể không hỏi.

“Tôi nhớ đây là ai rồi. Tên anh ta là Herstal Armalight, tôi đã gặp anh ta vài lần lúc làm chứng trước tòa.” Olga cau mày, giọng nói của cô nghe có vẻ như đang suy nghĩ: “Bart chắc chắn không thích người này, cảnh sát thường nhận xét anh ta là một gã khá phiền phức, kiểu người bán lương tâm của mình vì tiền nếu anh ta thật sự có lương tâm đấy. Tệp khách hàng của anh ta là các bị cáo đang bị xét xử, phần lớn là thành viên các băng đảng. ‘Selling point’ của công ty anh ta là làm bất cứ điều gì để khách hàng được vô tội.”

Một luật sư xã hội đen, Albarino khẽ khịt mũi. Ngành công nghiệp này ở Westland khá phát triển bởi vì số lượng xã hội đen ở thành phố này nằm cũng thuộc hàng top cả nước. Vô số luật sư mạo hiểm bị các băng đảng đối địch đâm sau lưng, bị ám sát và giậu đổ bìm leo chỉ để đưa thân chủ của họ ra khỏi tù bằng lời nói lấp liếm; mặc dù nhiều người có ý thức công lý thấy công việc này ô nhục nhưng nó lại bào ra rất nhiều tiền.

Albarino không có ý thức về công lý, nếu có thì hắn đã chọn cho mình một sở thích khác rồi. Hắn không bị ám ảnh về đạo đức đối với nghề luật sư xã hội đen mà chỉ cảm thấy cách người này chọn khách hàng dở tệ.

Suy cho cùng, không phải xã hội đen nào cũng là ngôi sao sáng như loạt phim ‘Godfather’. Một số lượng lớn xã hội đen kiếm sống bằng nghề buôn bán ma túy và mại dâm bẩn thỉu, một số băng đảng là thành phần tù tội sống bằng bạo lực và kê gian, và một số khác… Không cần giải thích, nhìn cách cư xử của Thomas Norman là biết giải quyết anh ta rất phiền phức.

Nhưng ngoài vấn đề này thì…

Hiện tại luật sư vẫn đang nói: “Tôi có một cuộc hẹn với anh ấy vào khoảng ba giờ chiều… Không, tôi không thể nói cho anh biết bọn tôi thảo luận điều gì, đây là nguyên tắc bảo vệ quyền riêng tư của khách hàng. Nếu anh mang lệnh khám xét đến văn phòng của tôi…”

Ngoài vấn đề này thì giọng luật sư thực sự rất trầm và dễ chịu với sự cộng hưởng như dây đàn violin. Những ngón tay của Albarino vô thức cạ vào tấm kính trong đến mức dường như không tồn tại và đi đến gò má người kia.

Chắc hẳn những năm tháng dài làm nghề luật sư đã tô thêm vẻ lạnh lùng và sắc sảo trên khuôn mặt đối phương. Sự lạnh lùng này cuộn trong những nếp nhăn nơi khóe mắt và giữa hai lông mày của gã và đọng lại trên đôi môi không cười. Albarino có một sở thích nhạy cảm đối với từ ‘đẹp’ nên hắn phải nói ra: Bản thân vị luật sư này có khuôn mặt đẹp và tuấn tú, nhưng khí chất cứng cỏi tỏa ra từ trong ra ngoài đã chôn vùi vẻ đẹp trai này như cá nhà táng ngấu nghiến sinh vật phù du dưới biển.

Hậu quả của việc này là tuy luật sư Armalight có vẻ ngoài gây ấn tượng mạnh nhưng người khác hoàn toàn không để ý đến. Khi gã đến gần, người ta phải toàn tâm toàn ý giao thiệp với gã vì sợ người này sẽ biến họ thành nạn nhân trong trò chơi vô đạo đức của mình.

Vị luật sư có thể gặp rắc rối vì chuyện này, hoặc ít nhất thì đặc điểm này đã ảnh hưởng đến cuộc sống của gã ta: Ngón tay gã không đeo nhẫn và cuộc sống của gã hẳn chỉ xoay quanh mấy đối tác công việc lừa lọc lẫn nhau. Herstal không thể mở lòng với bất kì ai, đúng là hơi uổng cho thân phận và tài sản kếch xù của gã ta.

Đôi mắt gã màu xanh da trời khá sáng, xanh đến mức như thể mỉa mai.

Albarino nghĩ… Có lẽ khi người này nhắm mắt lại và linh hồn rời khỏi thể xác thì người ta mới bỏ qua khí chất đến từ bản tính này. Khi sự kiêu ngạo và sự sống bị dập tắt hoàn toàn theo cách đáng sợ và khó cưỡng nhất, người ta mới có thể bỏ qua những đánh giá đạo đức vô nghĩa và bản năng tìm lợi tránh hại để nhìn thẳng vào mặt gã.

Bỏ qua cái đẹp là một tội ác tột cùng, và Albarino Bacchus không bao giờ ngại giúp mọi người mở rộng tầm mắt.

“Richard tình cờ đề cập với tôi là tối đó bọn họ không có kế hoạch, như vậy thì hẳn là lúc đó anh ta ở biệt thự riêng…”

Herstal Armalight với mái tóc vàng pha lẫn một số sợi bạc tỏa sáng trong ánh đèn phòng thẩm vấn rõ ràng là hình mẫu ‘quý ông trưởng thành’ mà các cô gái yêu thích. Albarino đứng trong hành lang tăm tối và thắc mắc không biết màu tóc đó có phù hợp với phông nền các loài hoa trắng hay không.

Hoa anh thảo và hoa thuý điệp trắng, hoa tuyết cầu và hoa mõm sói trắng; trái tim trống rỗng của cơ thể tàn ác này nên được thay bằng một bó loa kèn với ý nghĩa mỉa mai, hoặc hoa thuỷ tiên với ẩn dụ về chàng Narcissus. Xung quanh thi thể nhợt nhạt là cành cây vảy rồng ngoằn nghoèo làm quan tài và giường ngủ.

Dưới ánh trăng và đêm đen, tất thảy những thứ này sẽ được bao phủ bởi một màu trắng lạnh giá như một khu vườn trăng sáng lung linh.

Hắn nhìn chằm chằm vào mặt đối phương một lúc và cảm thấy ý tưởng bất chợt này không tồi. Đôi môi của đối phương mở ra rồi đóng lại, cây bút của viên cảnh sát Hardy viết rất nhiều ghi chú vào cuốn sổ, chắc chắn Albarino không thèm nghe một chữ nào.

Tất nhiên Albarino muốn giết vị luật sư hắn mới chỉ gặp một lần này, điều này không có gì đáng ngạc nhiên đối với người như hắn. Trên thực tế, hắn chính là kiểu người như vậy: Hắn làm điều mình muốn. Thay đổi bạn tình theo sở thích, lái một chiếc xe quá phô trương so với nghề giám định viên, cứu người hay giết người thì cũng như nhau cả thôi.

Nhưng không, hắn không thể… Hắn rất giỏi đối phó với sự ghé thăm bất ngờ của đấng sáng tạo, con người luôn có khát khao thể hiện bản thân mãnh liệt vào thời điểm này, nhưng hắn không thể. Vụ án Richard Norman bởi Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland vẫn chưa kết thúc, hắn phải dạy cho kẻ giết người kiêu ngạo đó một bài học trước khi bắt đầu hình thành tác phẩm mới của mình một cách kĩ càng.

Chờ đợi là một đức tính tốt, vội vã bắt tay vào công việc luôn dẫn tới sự bất hạnh.

Albarino âm thầm ghi lại tên Herstal Armalight này vào sổ ghi chép trong lòng và xếp gã vào mục thứ hai trong danh sách việc cần làm.

Còn với Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland thì hắn đã có một kế hoạch trong đầu.