Thương Tiến Tửu

Chương 146: Nguyên Trác



Thẩm Trạch Xuyên chợt gọi: “Đinh Đào.”

Đinh Đào bọc con mèo con lại, nhảy qua vật cản, nắm lấy tay một người trong đó, nói: “Các ngươi đang giấu cái gì đấy? Tránh ra để công tử xem nào.”

Phí Thịnh nhìn ánh mắt láo liên, điệu bộ ấp a ấp úng của mấy tên này thì quát lên: “Gì đây, con lừa này không phải của các ngươi à?”

Đinh Đào lẹ mắt kêu: “Công tử, phía dưới có người kìa!”

Cẩm y vệ xung quanh ùa tới bao vây, những tên này phần lớn là côn đồ lưu manh ở thành Đan, thấy mặt của Cẩm y vệ bất thiện, tất cả đều đeo đao thì không khỏi sinh hãi, trước khi Phí Thịnh hạ lệnh đã bỏ chạy tứ tán. Bọn chúng vừa chạy, người trên mặt đất ló ra.

Dư Tiểu Tái nhấc áo lại gần xem, khom lưng thốt lên: “Sao mà lắm máu thế này? Nhanh, đỡ dậy ngay, đi tìm đại phu!”

Phí Thịnh ngồi xổm xuống kiểm tra, nói: “Chân này hỏng rồi, bị người khác đánh gãy xương rồi.”

Người kia không chịu ngẩng mặt lên, chống mình dậy trong giây lát, nói khàn khàn: “… Mèo là của ta.”

Phí Thịnh ngại, bèn nhấc con mèo kia lên thả xuống cạnh y, vẫn còn giải thích: “Ta cứ tưởng là mèo hoang cơ, con lừa kia cũng là của ngươi à? Ngươi không phải người thành Đan đấy chứ?”

Người kia không đáp, y cúi đầu ho sù sụ, lúc che miệng Phí Thịnh thoáng thấy trong tay y đang nắm chặt một chiếc khăn. Chiếc khăn này rất đẹp, dù bẩn nhưng chỉ nhìn chất liệu cũng đoán được không phải đồ tầm thường. Ngón tay kia rất thon dài, bên trên không có vết chai, không phải tay của người hay làm việc nặng.

Phí Thịnh đổi thái độ ngay tức thì, hắn nói: “Để ta đỡ ngươi, chân ngươi không đi được cái đường này đâu, bệnh lại nặng như thế, phải mau để đại phu xem mới là chuyện ưu tiên.”

Người ấy bỗng siết chặt nắm tay, tiếng ho trầm trọng hơn. Chiếc khăn đang che miệng của y dính máu, rõ ràng đã vô cùng thê thảm, lại vẫn biết phép tắc một cách bất ngờ. Y rũ mắt, nói: “Không dám làm phiền, đa tạ.”

Dư Tiểu Tái thấy bên hông y đeo một chiếc túi chiêu văn thì biết ngay là người đọc sách, không khỏi càng săn sóc, ngoái lại bảo Thẩm Trạch Xuyên: “Đồng tri, ta trông y không phải người xấu đâu, chi bằng——”

“Đồng tri,” giọng người này chợt thay đổi, “Thẩm đồng tri, Thẩm Trạch Xuyên?”

Thoắt cái, Cẩm y vệ xung quanh đồng loạt đặt tay lên đao, Thẩm Trạch Xuyên giơ tay tỏ ý đừng nóng, hỏi: “Ngươi với ta là người quen cũ à?”

Sóng lòng của người này trào dậy, định nói gì đó, nhưng lại sặc ra máu. Cổ họng y lăn mấy lần, tiếng ho càng dữ dội, ngón tay trắng bệch co quắp, run rẩy cào vào mặt đất, cố gắng cào ra dấu vết, liên tục thều thào: “Thẩm Trạch Xuyên, là ngươi!”

Dường như Kiều Thiên Nhai từng biết giọng nói ấy, hắn quay người lại.

Thẩm Trạch Xuyên chậm rãi ngồi xuống, nhìn thẳng vào người này. Người ấy lấy chiếc khăn đang che miệng ra, chống tay xuống mặt đất, đôi mắt dường như đang bị thiêu đốt, bên trong là sự điên cuồng liều lĩnh. Y ngẩng mặt lên, ngay lúc tất cả mọi người đều tưởng rằng y sẽ khóc, sẽ phát rồ, y lại cười một tiếng nhẹ vô cùng. Tiếng cười ấy tựa như nước xuân dậy sóng, một chốc phong quang, ngay sau đó ngã xuống lửa dữ bất tận sâu không thấu đáy, cả ngạo cốt phong lưu đều thiêu rụi cùng nhau, biến thần tiên thành vốc tro tàn dơ bẩn.

Kiều Thiên Nhai nhận ra y là ai.

Từng gảy đàn dưới liễu trong cảnh xuân, tri âm tương hòa tất thảy chìm trong làn mưa bụi, công tử độc tuyệt áo xanh lỗi lạc ấy lại bị người ta đánh gãy hai chân. Viên ngọc thô Hải Lương Nghi và Diêu thị trân quý giấu đi cả nửa đời, cứ dễ dàng vấy bùn như thế.

Kiều Tùng Nguyệt bỗng cảm thấy mờ mịt, trực giác bảo hắn không nên tiếp tục nhìn chằm chằm vào Diêu Ôn Ngọc, thế nhưng một lần nữa, hắn lại nhìn thấy chính mình. Bọn họ đều đã từng ngự trên cung trăng, Kiều Tùng Nguyệt đi xuống, công tử ca tuấn tú mang quạt biến thành Kiều Thiên Nhai phóng khoáng mang đao, hắn cứ ngỡ gặp nhau chỉ là một thoáng chớp mắt, chẳng ngờ nửa năm sau đó, gặp lại lại là cùng bệnh cùng thương.

Chữ thương ấy khiến người ta đau muốn chết.

Kiều Thiên Nhai dời phắt ánh mắt đi, không muốn nhìn nữa.

***

Trời đã tối, đèn trong phòng không sáng. Dược đồng đem bài thuốc ra, Phí Thịnh nhận lấy rồi đưa cho thuộc hạ đi lấy thuốc. Mấy người bọn họ đứng dưới hành lang, Đinh Đào ôm con mèo, ngoan đến bất ngờ.

Phí Thịnh nở nụ cười gượng gạo, nói với Kiều Thiên Nhai: “Không ngờ lại là y, thế…”

Thế thì sao đây?

“Ngọc thô Nguyên Trác” Diêu Ôn Ngọc, tiếng đồn vang bao năm ở Khuất đô, được ca tụng thành tiên giáng trần, người không qua lại với văn sĩ như Phí Thịnh nghe thấy cái tên ấy mà cũng như sét đánh ngang tai, ai ngờ khách tiêu dao trong lời đồn lại biến thành bộ dạng này, còn thảm hơn cả Dư Tiểu Tái lúc mới đến.

Dư Tiểu Tái đã khóc xong một trận, giờ đang quay mặt vào tường, đau xót không thôi, nghẹn ngào: “…Sao bọn họ… Sao xứng với nguyên phụ chứ!”

Phí Thịnh nói nhạt nhẽo: “Sự đời khó đoán, Do Kính đừng quá thương tâm.”

Kiều Thiên Nhai dựa vào cột hiên, ẩn mình trong bóng tối, không lên tiếng.

Bọn họ không đứng bao lâu thì Khổng Lĩnh đưa đại phu ra, vẫy tay với bọn họ. Kiều Thiên Nhai bước chậm vài bước, cúi đầu hỏi đại phu mấy câu, đại phu đáp lại đúng sự thật, Kiều Thiên Nhai im lặng một hồi lâu, tránh sang một bên để người dẫn đại phu đi.

Trong phòng buông rèm trúc, che đi một ít ánh nến. Phòng ngăn thành gian, Thẩm Trạch Xuyên ngồi ở gian ngoài, thấp giọng nói gì đó với Chu Quế, thấy bọn họ vào thì chỉ nói: “Phí Thịnh gác đêm, Đinh Đào về viện ngủ. Do Kính cũng không cần phải lo đâu, nhà bếp đang sắc thuốc rồi.”

Dư Tiểu Tái nghiêng mình ngồi xuống, trầm mặc giây lát, rồi mới nói: “Diêu công tử y…”

Khổng Lĩnh là người tinh tế, biết giờ không phải lúc để nói chuyện này ở đây, dù là cảm khái hay thương hại, đối với Diêu Ôn Ngọc đều chẳng khác nào lăng trì. Bởi vậy bèn đứng dậy, dẫn Dư Tiểu Tái theo, nói: “Bây giờ đêm cũng khuya rồi, Do Kính, Diêu công tử mới đến, để y nghỉ ngơi đêm nay đi, mai chúng ta lại đến thăm cũng chưa muộn.”

Dứt lời quay lại hành lễ với Thẩm Trạch Xuyên, bảo Chu Quế: “Lát nữa có nghị sự trong thư phòng, đại nhân cũng về cùng ta luôn đi.”

Dư Tiểu Tái được Khổng Lĩnh thức tỉnh, cũng đứng dậy cáo từ theo bọn họ. Trước khi đi hắn nhìn về phòng, thấy bóng cây cắt ngang bóng nến, người bên trong yên tĩnh. Dư Tiểu Tái lại nhớ về Hải Lương Nghi, không khỏi đỏ mắt, nhưng chỉ nén xuống tiếng thở dài rồi vội vã bước ra cửa.

Đêm tối thê lương, ánh trăng soi vào hoa cỏ trong sân cũng ốm yếu. Dưới mái hiên treo mấy chiếc chuông gió, đung đưa theo gió phát ra tiếng leng keng. Diêu Ôn Ngọc nằm trên giường, nghe tiếng chuông mà ý thức rã ra, trong cơn mê man, lại quay về Khuất đô.

Khuất đô mưa bụi giăng mờ.

Diêu Ôn Ngọc mặc đồ tang, tiễn đưa Hải Lương Nghi đến núi Bồ Đề. Ngọn núi này đã từng chôn tổ phụ của y, giờ lại chôn cả thầy của y, y đứng trong cơn mưa bụi ấy, chẳng biết núi xanh, cũng chẳng biết đường về.

Diêu thị đã từng có quốc sĩ, bọn họ nhiệt thành tâm huyết qua các triều đại của Đại Chu, cũng từng là trụ cột vững vàng của thành lũy thế gia, nhưng đến đời Quang Thành đế, Diêu lão thái gia thay đổi gia phong, gạt bỏ thành kiến môn đệ, chìa tay cho con thứ hàn môn không có cửa gửi thiếp, từ đó Thái học hưng thịnh. Diêu gia tìm ra một lối đi khác, nhưng lối đi ấy lại chết yểu trong tay Thái hậu Hoa Hạc Vĩ và Hoa Tư Khiêm, đến đời của Diêu phụ, Diêu thị suy thoái, mặc dù dư uy vẫn còn đấy, nhưng không thể được như lúc Diêu lão thái gia còn sống nữa. Trí mạng nhất chính là, con nối dõi thế hệ này của Diêu gia đã tàn lụi, chỉ có đúng Diêu Ôn Ngọc, còn lại đều là con chi bên, thậm chí còn chẳng có ai qua nổi kỳ thi Hội.

Những năm gần đây tám đại gia tộc thế gia luân phiên nhau, Diêu thị đã không thể phục chúng. Con cháu nhà bọn họ vẫn đang làm quan, nhưng đều là mấy chức quan nhàn hạ, không có trọng thần tam phẩm như Ngụy thị. Mặc dù Diêu Ôn Ngọc đã bái môn hạ Hải Lương Nghi, lại còn kết giao rộng rãi với văn sĩ, nhưng thân y không có công danh, cũng chẳng lấy quận chúa Chiếu Nguyệt của Phí thị. Ngoại trừ tài danh ra thì y chẳng có gì cả, kết quả đến cuối cùng cả tài danh cũng bỏ y đi, y giống như lá rụng trên núi, héo úa thành bùn, chẳng đáng một xu.

Kiều Thiên Nhai vén rèm lên rồi dịch sang một bên. Thẩm Trạch Xuyên đi vào, ngồi xuống chiếc ghế đại phu vừa mới bắt mạch. Nến tắt, Thẩm Trạch Xuyên nói: “Ngươi bị người hạ độc, đừng nên dãi gió dầm sương nữa, nếu không ngại thì sống ở nhà ta đi. Thầy của ta với thầy của ngươi coi như là bạn đồng liêu, ngươi lại là người quen cũ của Sách An, không cần phải khách sáo đâu.”

Gương mặt đã rửa sạch của Diêu Ôn Ngọc tĩnh lặng, y vẫn đang nghe tiếng chuông gió dưới hiên, một lát sau mới cất tiếng: “Khỏi cần phải nói khéo như thế, ta đến Từ châu chính là muốn nương nhờ đồng tri.”

Thẩm Trạch Xuyên đặt quạt lên đầu gối, nói: “Giờ ta ăn nhờ ở đậu, lăn lộn kiếm miếng ăn, chỉ dám xưng huynh đệ với ngươi, không dám xưng chủ tớ.”

“Từ châu phục hưng, không thể không kể công của đồng tri.” Diêu Ôn Ngọc lại ho, cơ thể này liên tiếp chịu thương nặng là muốn để y chết, y là một văn nhân, mầm bệnh đã cắm sau này sẽ khó xóa tận gốc. Giờ bệnh của y hết sức nghiêm trọng, gầy hơn nửa năm trước rất nhiều. Y nắm chiếc khăn tay, che lại chốc lát rồi mới nói tiếp: “Dọc đường đi ta đã được nghe về những việc mà đồng tri làm, cho rằng đồng tri không phải đang mưu giành Trung Bác, mà là đang mưu giành Khuất đô. Sau khi đường giao thương Từ Trà Hòe được hình thành, đi Đông Bắc có thể đến thẳng hỗ thị* của Ly Bắc, đi Đông Nam có thể khống chế đường lương của Khải Đông. Hai trọng binh của Đại Chu đều phải kinh qua ánh mắt của đồng tri, sau này đánh thế nào, đánh lúc nào, đó đều do đồng tri toàn quyền định đoạt.”

(*Xem chú thích chương 29.)

Ngón tay Thẩm Trạch Xuyên chà qua mặt quạt, tựa lên tay ghế, không đáp.

“Chưa kể tuyến đường này lại có vị trí đặc thù, nếu đồng tri thành lập thành trấn dựa vào nó, thế sẽ thu hết ba mặt Đông Nam Bắc của Khuất đô vào trong túi. Binh lực của tám đại doanh có hạn, sau này nếu không có Khải Đông trợ giúp, Khuất đô mà muốn phá ba mặt bao vây của đồng tri thì đừng mong có phần thắng.” Diêu Ôn Ngọc liếc nhìn Thẩm Trạch Xuyên, “Đồng tri nhìn xa trông rộng, mưu cả tận mấy năm sau này.”

Thẩm Trạch Xuyên chăm chú nhìn Diêu Ôn Ngọc.

Nếu không phải vì người này đến đây trong cảnh khó, đừng nói là người khác, đến Thẩm Trạch Xuyên cũng muốn giết y. Dụng ý của đường giao thương Từ Trà Hòe châu có trăm nghìn cách lý giải, nhưng cách mà Diêu Ôn Ngọc nói mới là suy nghĩ thật sự của y —— làm Khuất đô mất đi binh đạo nối thẳng với Ly Bắc, ngoài khống chế Hà châu ra, Trà châu còn có thể cản trở đường lương của Khải Đông, Thẩm Trạch Xuyên muốn chính là bao vây Khuất đô.

“Nhưng chưa chắc Thích Trúc Âm sẽ chịu cho đồng tri thời gian,” Diêu Ôn Ngọc không kìm được cơn ho, liên tục lấy khăn che miệng, “nàng quan sát từng cử động của ngươi từ Khải Đông ở đằng sau, chẳng chóng thì chầy sẽ nhìn ra manh mối. Nếu việc này của đồng tri mà thành công, đương nhiên tất thảy sẽ vui mừng, nhưng nếu không thành, sẽ rơi ngược vào vòng công kích trước sau của cả Khuất đô và Khải Đông, đến lúc đó hai mặt gặp địch, cho dù Ly Bắc chịu xuất binh trợ giúp, cũng sẽ không thể cùng lúc chống lại cả Biên Sa lẫn quân phòng vệ Khải Đông. Không có binh mã chính là điểm yếu trí mạng hiện giờ của đồng tri, cho nên đồng tri mới liên kết hai châu Từ, Trà, nhập lại hộ tịch, thu nhận lưu dân, chính là để nhanh chóng thành lập được một đội quân sẽ nghe lệnh ngươi.”

Thẩm Trạch Xuyên đóng cây quạt lại, cười: “Diêu Nguyên Trác danh bất hư truyền, ấy nhưng ngươi thông minh như thế, sao lại lưu lạc đến tận Trung Bác? Nếu muốn kiến công lập nghiệp, thế cục ở Khuất đô hiện giờ rất vừa chuẩn, dù là Thái hậu hay nội các đều phải có giá hơn Thẩm Lan Chu ta chứ.”

Diêu Ôn Ngọc muốn ngồi dậy, Kiều Thiên Nhai tiến tới đỡ, kê gối cho y. Y không nhìn Kiều Thiên Nhai, như thể không nhận ra. Ngón tay dài kia che khăn, quay mặt vào trong ho khù khụ một lúc lâu nữa. Y nhìn chằm chằm vào ánh nến trên tường, khàn giọng nói: “Tiết Diên Thanh phù trợ trữ quân ở Khuất đô, uy hiếp nội các và Thái hậu, ý định dẫn đầu Thái học tiến hành cải cách, nhưng ta cho rằng Đại Chu đã vô phương cứu chữa, thay vì tiếp tục cố gắng cầu toàn, thà đập đi xây lại còn hơn. Đại Chu mất đi con hươu, cả thiên hạ đều truy đuổi nó*, đến cả Lôi Thường Minh xuất thân thường dân cũng động tâm tư tự lập vương. Đến lúc cải cách Khuất đô được tiến hành, các nơi tất sẽ võ trang khởi nghĩa, không thể tránh khỏi quần hùng phân tranh, đế vương Lý thị đã không còn sức để xoay trời chuyển đất rồi.”

(*Xem chú thích cuối chương 72.)

Diêu Ôn Ngọc quay đầu lại, nhìn Thẩm Trạch Xuyên trong ánh nến u ám, ánh sáng thiêu đốt trong mắt y xiết bao phức tạp, từng chữ rõ ràng: “Thiên hạ này ai cũng có thể tọa, Lý thị có thể, cớ sao Thẩm Lan Chu ngươi lại không thể?”

Thẩm Trạch Xuyên dựng cây quạt lên, lạnh giọng nói: “Chí của ta không ở đây.”

“Ngươi không lừa được ta đâu,” Diêu Ôn Ngọc thấp giọng, “ngươi đang đi trên con đường ấy rồi.”

“Ta có thể phò tá người khác,” Thẩm Trạch Xuyên hơi mỉm cười, “họ Lý trong thiên hạ đâu chỉ có một.”

“Sáu năm trước Trung Bác binh bại, ngươi mất hết thảy. Sáu năm sau Khuất đô lại bại, ngươi lại mất hết thảy. Sáu năm tiếp theo nữa,” Diêu Ôn Ngọc nhàn nhạt rũ mắt, “ngươi vẫn sẽ chịu giao gia đình tính mạng của mình vào tay người khác hay sao? Ngươi vốn không thể làm trực thần, bị định đoạt bởi người khác đã trở thành nỗi nhục cả đời của ngươi rồi.”

Không khí trong phòng thay đổi, ngón tay Thẩm Trạch Xuyên nắm cây quạt, dù vẫn điềm tĩnh, nhưng dường như chỉ một khắc sau sẽ tàn nhẫn động tay, chẳng thể nhìn ra được ẩn tình trong mắt. Chuông gió ngoài cửa sổ va leng keng, bóng cây xào xạc, rơi xuống mép áo y, bị y dẫm lên dưới chân.

Thẩm Trạch Xuyên chợt mỉm cười: “Tiên sinh chịu đầu quân vào dưới trướng ta, sau này có việc lớn nhỏ gì, đều có thể thương lượng. Kiều Thiên Nhai, dâng trà.”

Diêu Ôn Ngọc nhận trà, khuấy bọt trà, không uống ngay. Cổ tay y đồng màu với chén trà, nhưng lại gầy đến đáng thương. Y nhìn lá trà trôi lững lờ, cười tự giễu: “Không cần gọi ta là tiên sinh, ta đã thua dưới tay Tiết Tu Trác ở Khuất đô, bị hắn đánh gãy hai chân, suýt nữa thì bỏ mạng. Không phải ngươi hỏi ta vì sao lại đến đây sao?”

Diêu Ôn Ngọc yên tĩnh một hồi lâu.

“Bởi vì ta muốn đánh xong ván cờ này với Tiết Tu Trác, thắng thua không định, sống chết không bàn.”

===