Thương Tiến Tửu

Chương 262: Chia ngả



“Cho ngươi thì sợ gãy eo mất.” Tiêu Trì Dã cười mà như không cười.

Ký Nhiên không dặn, nhưng eo Thẩm Trạch Xuyên đang bị thương, quả tình không chịu nổi thật.

Thẩm Trạch Xuyên nhịn giây lát, định rút chân về, nhưng Tiêu Trì Dã không cho, hắn nắn mắt cá chân trong lòng bàn tay, dán nó vào mình.

“A…” Thẩm Trạch Xuyên chậm rãi kéo dài âm cuối, “thế này là muốn ta trông mơ giải khát*, tự an ủi mình đấy ư.”

(*Trong lúc hành quân, để quân lính đỡ khát, Tào Tháo đã bảo họ rằng quân sắp qua rừng mơ. Nghe vậy, ai nấy đều ứa nước miếng và đỡ khát hẳn.)

“Không còn sớm sủa nữa đâu.” Tiêu Trì Dã nói, tay lại không buông ra.

Thẩm Trạch Xuyên vốn định nói gì đó nữa, nhưng bàn tay đang nắm y bỗng chuyển động.

“Trước tháng Chín, nếu đại soái vẫn không xuất binh được thì ta không đợi nữa.” Tiêu Trì Dã ăn mặc chỉnh tề, nửa thân trên chẳng mảy may nhìn ra tẹo biến hóa nào, lúc nói chuyện cũng chẳng khác thường nhật là bao.

“Nữ đế khôn ngoan vậy mà, đương nhiên sẽ không đồng ý cho đại soái xuất binh rồi, huống hồ——” giọng Thẩm Trạch Xuyên chợt nhẹ bẫng, như thể tan biến mất tiêu.

Tiêu Trì Dã cởi tất sạch của y ra.

Khăn trải rũ quanh bàn, theo bàn tay dẫn dắt của Tiêu Trì Dã, đầu gối Thẩm Trạch Xuyên nhẹ nhàng tì vào bàn. Chân trần cà lên lớp áo hoa văn rườm rà, vải cọ vào lòng bàn chân y, mềm mại bao trong cứng rắn.

“Huống hồ đại soái còn phải lo cho năm quận,” Tiêu Trì Dã tiếp lời Lan Chu, “thâm nhập đại mạc tốn rất nhiều công sức, nàng phải cân nhắc nặng nhẹ, nếu trận này mà đánh quá lâu, đến cả Thích Thời Vũ cũng chưa chắc đã đồng ý.”

Khóe mắt Thẩm Trạch Xuyên ửng đỏ, đó là nhiệt triều thôi thúc, y nói: “Hôm đó ngươi bảo Lục tướng quân là phải chờ Khải Đông.”

“Lúc đó nữ đế còn chưa lộ tài, giờ nhìn lại, hy vọng xuất binh của Khải Đông mong manh quá.” Nói đến đây, Tiêu Trì Dã không chọc Lan Chu nữa, “Năm nay ngươi đã tập hợp lương thực từ bốn châu Hòe, Trà, Từ, Hà để giải quyết vấn đề cơm ăn, tuy đã đuổi kịp vụ xuân, nhưng lại mất kho lương Hòe châu. Đào Minh bỏ chạy, triều đình tất sẽ phái người khác đến cai quản, năm sau mà lại muốn làm ăn với bọn họ nữa thì khó đấy. Cảng Vĩnh Nghi và mỏ đồng của Hề thị đều bị niêm phong, hỗ thị Ly Bắc buôn bán kém hẳn nửa. Lan Chu, sang năm không nuôi nổi quân phòng vệ Khải Đông đâu.”

Lần này Khải Đô xuất binh đánh bộ Thanh Thử, triều đình không cho lương thực, vậy mà Thích Trúc Âm vẫn còn sức, thử hỏi sức của nàng lấy đâu ra? Trần đời này ngoại trừ Thẩm Trạch Xuyên, còn ai có thể hào phóng cung cấp lương thực cho quân phòng vệ như vậy nữa? Tiết Tu Trác không ngu, lương của quân phòng vệ là ai cho, hắn biết thừa, hắn chỉ không nói toạc ra ngay trước mặt Thích Trúc Âm thôi.

Do năm nay phải tập trung tuyển binh, Khải Đông năm quận thì tận ba quận không ai khai khẩn ruộng quân, hiệu quả quân đồn suy giảm dẫn đến nhu cầu quân lương của Thích Trúc Âm năm nay tăng cao hơn năm ngoái. Điều duy nhất đáng mừng chính là ruộng dân vẫn tiến hành cày vụ xuân như thường lệ, miễn nàng chỉ phải rầu rĩ vì quân lương thôi là được rồi, song kể cả thế, chi phí lương thực cho ba mươi vạn lính cũng kinh hồn, càng đừng bàn đến việc phải thâm nhập đại mạc, chuyện này với chuyện nàng dẫn quân đánh úp là hai chuyện khác nhau hoàn toàn.

Sau chiến thắng Đoan châu, tiền bỏ ra cho công sự phòng ngự ở các châu dĩ nhiên tăng, không chỉ có thế, sáu châu đã bắt đầu phát triển, Thẩm Trạch Xuyên phải cung cấp quân lương cả năm cho toàn bộ mười hai vạn quân phòng vệ của sáu châu, xong còn phải cung cấp quân lương cho mười hai vạn thiết kỵ Ly Bắc, nếu còn bồi thêm cả quân phòng vệ Khải Đông nữa thì tổng cộng năm mươi tư vạn binh mã sẽ dồn hết lên vai y.

“Vương Hiến viết thư cho ta, bảo nửa tháng trước hắn đã gửi thư cho ngươi, trong đó đã giải thích rõ khó khăn rồi,” Tiêu Trì Dã đổi sang một tư thế thoải mái hơn, “ngươi chưa hồi âm.”

Lòng bàn chân Thẩm Trạch Xuyên vẫn đang dán vào nơi căng tràn mạch máu của Tiêu Trì Dã, y ngả vào ghế, nói: “Nửa tháng trước các tiên sinh vẫn chưa ước tính xong chi phí, vậy nên ta mới tạm thời chưa trả lời Vương Hiến.”

“Các tiên sinh trong phủ đều tốt, có điều bọn họ hầu hết đều xuất thân từ địa phương, tuy có tài nhưng lại không rành nghiệp vụ bằng quan viên như Vương Hiến. Vương Hiến giữ chức chủ sự bộ Hộ, hay qua lại với bộ Binh, năm nào cũng phải tiếp xúc với các võ tướng vào đô đòi tiền đòi lương chúng ta đây, chi phí quân sự và nhu cầu quân lương của các vùng hắn đều rõ ràng.” Dạo này Tiêu Trì Dã chỉ nằm nhà nghỉ, chuyện nghĩ đến nhiều nhất cũng là quân lương.

Ba quân cùng tề tựu thì quá lý tưởng, nhưng mà quá khó khăn.

Thiết kỵ Ly Bắc quá hao trang bị, lúc vận chuyển quân lương còn phải dẫn quân thợ theo. Đội vận tải đến chiến địa xong đi tiếp về phía Đông thì lại chưa có mã đạo để đi, toàn bộ sa mạc hoang vu là địa bàn của mười hai bộ, muốn vận chuyển lương thì phải gia tăng binh lực để bảo vệ, nhưng tăng binh lực đồng nghĩa với tăng quân lương. Thiết kỵ Ly Bắc đi càng xa, lương thực ngốn càng nhiều, đã vậy còn phải tính đến những bất trắc dọc đường, cái này còn khó gấp bội lần đánh phòng thủ.

“Năm vừa rồi Tiết Tu Trác đã từ bỏ thành Tuyền và ải Lạc Hà, chỉ giữ duy nhất mười ba thành Quyết Tây, lúc đó còn chưa thấy lợi hại,” rốt cuộc Thẩm Trạch Xuyên cũng lộ vẻ chật vật, thở dài, “giờ mới thấy cao tay.”

Nào ai không muốn binh lực của Thích Trúc Âm? Thẩm Trạch Xuyên cũng muốn, chỉ cần nắm trong tay năm quận Khải Đông, nữ đế có là Quang Thành đế tại thế thì Khuất đô cũng chẳng lật bàn nổi. Tiết Tu Trác vẫn ngó lơ chiến sự ở Trung Bác và Ly Bắc, hồi đầu năm Thẩm Trạch Xuyên chiêu quân cũng mặc xác, thậm chí còn không truy vấn quân lương Khải Đông, đây là một loại tiêu hao khác đối với Thẩm Trạch Xuyên.

“Giang Thanh Sơn quả là một sự trợ giúp đắc lực, chẳng trách nữ đế muốn dùng hắn để đánh tay đôi với Tiết Tu Trác, người này chỉ dựa vào sức của mình mình mà gánh đặng kho lương Đại Chu,” ánh mắt Tiêu Trì Dã thâm sâu, “Lan Chu, trận chiến mà ngươi phải đánh còn khó hơn cả của ta nữa.”

Thẩm Trạch Xuyên không trả lời thư của Vương Hiến là vì nghĩ cho Tiêu Trì Dã. Tương tự, bây giờ Tiêu Trì Dã từ bỏ quân phòng vệ Khải Đông cũng là vì nghĩ cho Thẩm Trạch Xuyên.

Tiêu Trì Dã xê ghế ra, cúi xuống nhặt guốc gỗ lên, nhưng lại không xỏ vào cho Thẩm Trạch Xuyên mà xếp ngay ngắn sang một bên. Hắn buông bàn tay đang nắm Thẩm Trạch Xuyên ra, cúi người sờ má Lan Chu, thấp giọng: “Ta sẽ tự đi.”

Khóe mắt Thẩm Trạch Xuyên đỏ hoe, trong đôi mắt đượm tình lại chẳng có tình triều.

***

Đêm khuya vang vài tiếng mõ, Phong Tuyền ngồi bó gối tựa vào chân long sàng của Lý Kiếm Đình, chưa ngủ. Gần nửa canh giờ sau, nghe thấy tiếng Lý Kiếm Đình hỏi sau màn: “Ngươi không ngủ à?”

Phong Tuyền tì cằm lên gối, gương mặt thanh tú của gã vùi một nửa, thưa: “Mấy bữa này Hoàng thượng khó ngủ, hay là chúng ta truyền thái y đi.”

Lý Kiếm Đình mở mắt, hơi trở mình quay lưng về rèm, nói: “Tại ngủ không quen ấy mà.”

Trong điện yên tĩnh chốc lát.

Lý Kiếm Đình hỏi: “Ngươi gặp Thẩm Trạch Xuyên chưa?”

“Năm Hàm Đức lúc y mới ra khỏi chùa Chiêu Tội đã gặp rồi ạ.”

“Thấy bảo mẹ y là vũ kỹ Đoan châu,” Lý Kiếm Đình như đang muốn xác thực, “đây là thật à?”

“Thật ạ,” Phong Tuyền cựa đôi chân đã tê rần, “y là con thứ hàng thứ tám của Thẩm Vệ, ở phủ Kiến Hưng vương không được yêu thương, bị đuổi đến nhà riêng ở Đoan châu từ lúc còn nhỏ, có quan hệ với đồng tri Cẩm y vệ quá cố Kỷ Cương. Lúc Đoan châu thất thủ, y cũng ở trong hố tử thần Trà Thạch.”

Lý Kiếm Đình im lặng chốc lát, nói: “Tề Huệ Liên dám vứt bỏ thành kiến với y, dốc sức truyền dạy, là một trang cuồng sĩ danh xứng với thực.”

“Nhưng Thẩm Trạch Xuyên vừa nhỏ nhen lại vừa thù dai,” Phong Tuyền nghiêng đầu, “Kỷ Lôi có thù với y, y khiến cho Kỷ Lôi… sống không bằng chết. Bữa yến tiệc đó, nếu tên Hàn Thừa ngu xuẩn không chống cự, Hoàng thượng có thể cách chức gã lưu đày đến Trung Bác, xem xem Thẩm Trạch Xuyên đối xử với gã thế nào, chắc chắn cũng sẽ khiến gã sống không bằng chết thôi.”

Bóng cây tràn đất ngoài cửa điện, vương cung về khuya vắng tiếng người.

“Ngươi là em ruột của Mộ Như à?” Lý Kiếm Đình bỗng hỏi.

Sắc mặt Phong Tuyền hơi đổi, không đáp ngay.

“Ngươi làm thái giám trước khi Mộ Như vào cung, khi đó nàng đã là ái thiếp của Sở vương rồi, ngươi còn vào đây chịu khổ làm gì?” con ngươi Lý Kiếm Đình khẽ chuyển, “ngươi không vào thư đường như Phúc Mãn, nhưng ngươi lại thông thuộc thi thư. Nhìn gia thế của Mộ Như, ngươi biết chữ thôi đã là đáng nể lắm rồi.”

Phong Tuyền lập tức quỳ phịch xuống: “Nô tỳ, nô tỳ…”

“Trẫm thấy hai lỗ khuyên của ngươi không phải mới xỏ, nhưng tiên đế không thưởng khuyên tai cho ngươi, càng không thể thưởng khuyên tai cho ngươi. Nam nhân có thể đeo khuyên tai lúc bé không phải con đích thì cũng là con nhà quyền quý, rốt cuộc ngươi,” Lý Kiếm Đình chống người dậy, dừng lại giây lát, nhìn qua rèm, “rốt cuộc ngươi đến từ đâu?”

***

Dây đàn kêu “tang” một tiếng, Kiều Thiên Nhai như vừa tỉnh mộng, giơ tay định xoa mi tâm, nhưng lại phát hiện ngón tay bị cứa đứt.

“Đại soái mãi không hồi âm, chính là đang bất mãn với việc phủ quân muốn đưa lãnh thổ của bộ Thanh Thử cho Hải Nhật Cổ…” Diêu Ôn Ngọc ngừng nói, ánh mắt xuyên qua rèm trông vào trong nhà.

“Chuyện này khó làm, chỉ sợ sẽ sinh xích mích với Khải Đông thôi.” Khổng Lĩnh nhìn theo, “Tâm tình Tùng Nguyệt không yên, chi bằng ra làm chút trà với bọn ta đi.”

Kiều Thiên Nhai lấy ngón cái quệt sạch máu, ngả xuống ghế cười: “Tiên sinh đã mời ta, vậy thì ta cung kính không bằng tuân mệnh.”

Nói rồi đặt đàn xuống bàn, đứng dậy vén rèm lên đi ra.

Hôm nay trời đẹp, dưới hiên kê sẵn bàn trà, không giống bàn công vụ mà giống đang thưởng trà hơn. Diêu Ôn Ngọc mặc áo xanh tay rộng, đoạn dây đỏ nơi cổ tay thấp thoáng ẩn hiện lúc uống trà. Kiều Thiên Nhai chẳng khách khí, ngồi luôn xuống chỗ cạnh Nguyên Trác.

“Trà gì ngon thế,” Kiều Thiên Nhai nhận trà Cao Trọng Hùng đưa qua, chỉ ngửi cái thôi đã nhận ra ngay, “ồ, Thịnh Xuân Ý của Hà châu.”

“Chớ lầm tưởng hắn mọi ngày cưỡi ngựa vung đao chẳng khác gì võ tướng,” Khổng Lĩnh chỉ chỉ Kiều Thiên Nhai, “chứ thật ra rành trà lắm đấy.”

“Đời lúc đắc ý phải vui sao cho thỏa,” Kiều Thiên Nhai uống trà, “nếu ta có tiền thì phải thỏa mãn cái bụng. Trà ngon rượu ngon gì, miễn là được nếm thử, tốn bao nhiêu tiền cũng chịu.”

Diêu Ôn Ngọc rũ mắt, nói: “Nên học hỏi Thần Uy một chút.”

Cao Trọng Hùng vội xua tay: “Ta lại ước được như Kiều chỉ huy ấy chứ, ta ấy à, cũng chỉ muốn tích tiền tậu được căn nhà, chờ sau này thiên hạ thái bình thì cưới một người vợ hiền thôi.”

“Tùng Nguyệt cũng chưa lấy vợ nhỉ,” Khổng Lĩnh hỏi, “không sốt ruột hả?”

“Nhìn Phí lão thập xem, cũng đã lấy vợ đâu? Bọn họ không sốt ruột, còn ta đương nhiên lòng như lửa đốt,” Kiều Thiên Nhai đặt chén trà xuống, giọng điệu nghiêm túc tợn: “ta nghĩ cách kiếm tiền tặng quà cưới mà phải nghĩ trắng đêm đấy.”

Chúng tiên sinh tức thì phá ra cười.

Kiều Thiên Nhai nghiêng mặt nhìn Diêu Ôn Ngọc: “Tiên sinh cũng chưa lấy vợ, sốt ruột không?”

Đóa hoa đầu cành rụng xuống tay áo Diêu Ôn Ngọc, y liếc mắt đón Kiều Thiên Nhai. Gió thoảng hoa rơi, thoảng cả mùi thuốc hơi đắng trên người y tới người Kiều Thiên Nhai.

“Trước kia thì có,” Diêu Ôn Ngọc nói, “giờ có Hổ Nô rồi lại thôi.”

Ngoại trừ Kiều Thiên Nhai ra, những người đang ở đây đều không rõ về chuyện giữa Diêu Ôn Ngọc và quận chúa Chiếu Nguyệt, chỉ láng máng nghe qua tin đồn quận chúa Chiếu Nguyệt định gả cho y, đương nhiên cũng tưởng y đang ám chỉ quận chúa Chiếu Nguyệt.

“Ta nói đời người có ba cái hận, một cái hận trong đó chính là không thể sinh ra làm Hổ Nô,” Kiều Thiên Nhai định bế Hổ Nô lên, nhưng Hổ Nô béo tròn cứ bám riết lấy cổ tay Diêu Ôn Ngọc, “không thì cả ngày lẫn đêm đã ngủ trong lòng ngươi, trong mơ cũng có thể thỏa thuê mộng huyền.”

Diêu Ôn Ngọc khẽ biến sắc, y không ngờ Kiều Thiên Nhai lại táo bạo như vậy, vội vàng ho sù sụ.

“Kiều chỉ huy suốt ngày nói những lời không tưởng, nếu có thể tranh luận với Nguyên Trác thì cũng hay,” Cao Trọng Hùng cảm thán, “chẳng biết sau này còn gặp được ai có phong thái thanh đàm như Nguyên Trác không nữa.”

“Thanh đàm hại nước.” Diêu Ôn Ngọc đưa tay che miệng, cổ tay hơi đỏ, y nói, “Nãy chưa nói xong, đại soái không hồi âm, chính là vì bất mãn với Hải Nhật Cổ, đất của bộ Thanh Thử dù gì cũng không phải do chúng ta đánh hạ, không thể cưỡng ép được.”

Khổng Lĩnh gật đầu: “Ta chính đang lo đại soái bất hòa với phủ quân vì thế đây.”

“Chúng ta muốn mượn lực đánh lực, nhưng suy cho cùng Hải Nhật Cổ cũng vẫn là một bọ cạp Biên Sa, đại soái không tin được cũng phải thôi.”

“Đó mới chỉ là một,” Khổng Lĩnh nhìn Diêu Ôn Ngọc, chậm rãi lắc đầu, “sợ nhất là đại soái nghi ngờ phủ quân làm vậy là để uy hiếp Khải Đông ấy.”

“Bộ Thanh Thử giáp với quận Biên,” Diêu Ôn Ngọc nói, “dù đại soái có không nghĩ thế, chư tướng Khải Đông cũng sẽ nghĩ thế. Ngày xưa bọn họ bị thái giám đốc quân của Khuất đô chèn ép, đã phải nhẫn nhịn đủ rồi, giờ tất nhiên sẽ không đồng ý để bọ cạp canh chừng bọn họ.”

“Nếu Khải Đông không chịu,” Khổng Lĩnh nói, “chúng ta chỉ có thể tính cách khác thôi.”

***

Trong lều thắp nến, Thích Trúc Âm xoa gáy gác chân nghe Thích Vĩ trình bày.

“Bảo Lục Quảng Bạch đừng viết thư nữa, hắn không phải chịu áp lực quân nhu, hai vạn bộ binh thích đi lúc nào thì đi lúc ấy,” nàng dán mắt vào nóc lều, “Ký Minh với Tiêu Trì Dã cũng không nhắc lại chuyện này nữa rồi.”

“Lục tướng quân đi theo đại soái lâu nhất,” Thích Vĩ nói, “hiểu năng lực của đại soái, dĩ nhiên sẽ khuyên đại soái xuất binh.”

“Hắn muốn đánh kỵ binh Biên Sa ta hiểu chứ,” Thích Trúc Âm hơi chau mày, “nhưng Đại Chu chưa bao giờ tiến vào đại mạc, đường sá xa xôi hiểm nguy rình rập, ba quân đi hết thì ai sẽ bảo vệ doanh trại? Bọ cạp Khuất đô vẫn còn đó kia kìa.”

Thích Vĩ hiểu Thích Trúc Âm khó xử, lần chần ít lâu, rồi nói: “Bây giờ đại soái mà từ chối bọn họ thì chỉ sợ sẽ phải gánh tiếng xấu thấy lợi quên nghĩa.”

Khuất đô mới phong nàng làm Đông Liệt vương xong, nàng lập tức lật mặt với Trung Bác và Ly Bắc, quân phòng vệ còn đang ăn lương thực Thẩm Trạch Xuyên cho, chuyện này ai nghe cũng đều phải chửi nàng thôi.

Thích Trúc Âm nói tỉnh khô: “Kệ người ta, miệng lưỡi thiên hạ khó kiểm soát nhất mà.”

“Món nợ này khó mà tính được, trong mắt Trung Bác, bọn họ phát lương nuôi quân phòng vệ chính là đại ân,” Thích Vĩ nói, “thế nhưng nếu không vì chiến sự Ly Bắc gay go, cửa Trung Bác mở tơ hơ cần chúng ta trợ giúp thì Thẩm Trạch Xuyên cũng đã chẳng cho lương dễ dàng như thế.”

“Mấy người đó là người mưu tính thiên hạ, hiểu thời cơ.” Mặt nghiêng của Thích Trúc Âm nghiêm túc, vẻ bông lơn thường ngày chẳng thấy đâu, “Ta giúp Ly Bắc là giúp chính mình, bây giờ không xuất binh cũng là giúp chính mình. Khải Đông và Ly Bắc là anh em đồng cam cộng khổ, nhưng nguy nan của Ly Bắc đã giải quyết xong rồi, Sách An còn muốn đi sâu nữa thì sẽ phải dốc sạch binh lực. Sau khi thiên hạ sụp đổ, lưu dân đông vô số kể, trận đánh năm nay với năm ngoái đều là cực chẳng đã. Ta biết A Mộc Nhĩ đã bắt đầu suy yếu, giờ là thời cơ lý tưởng để đập tan liên minh sáu bộ, nhưng kho lương tám thành trống nhẵn, bách tính chết đói nơi đầu đường, thành Dung Quyết Tây hạn hán, sau mùa thu Giang Thanh Sơn còn phải gắng cung cấp lương thực cho Khuất đô và Khải Đông, những lương thực đó đều phải lấy từ bá tánh ra. Sáu châu của Thẩm Trạch Xuyên có ba châu chưa có năm được mùa, y cũng phải phụ thuộc vào kho lương của Hà châu… Đánh trận này đã thật đấy, nhưng ta không đi được.”

A Mộc Nhĩ xuất thế tung hoành, sáu bộ Biên Sa chính là đại họa trong lòng võ tướng Đại Chu, lần thâm nhập đại mạc này, nếu thắng, bất luận tương lai ai tọa thiên hạ, thiết kỵ Ly Bắc và Tiêu Trì Dã đều sẽ lưu danh sử sách. Huống hồ thân là võ tướng, nào có ai không muốn phân cao thấp với đối thủ như vậy?

Thích Trúc Âm diệt nến, căn lều chìm vào bóng tối. Nàng ngồi hồi lâu, nói: “Ta nói, ngươi viết, bảo Thẩm Trạch Xuyên, cho dù lãnh thổ của bộ Thanh Thử có hoang phế, ta cũng sẽ không cho phép Hải Nhật Cổ đặt chân vào; bảo Tiêu Ký Minh, tuy Thích Trúc Âm ta với hắn quen nhau từ nhỏ, lớn thành bạn thân, song Thích thị ta vẫn là bề tôi của Đại Chu, cùng đánh giặc ngoài là trách nhiệm của ta, nhấn mạnh nhưng Trung Bác là phản tặc; bảo Lục Quảng Bạch, ta chúc hắn chiến công lẫy lừng rửa nhục quá khứ, nhưng lần này, chị em ta không đồng hành nữa.”

Nhạn cô kêu lanh lảnh, sải cánh cắt chân trời quận Biên. Thích Vĩ cất thư của từng người đi, xoay người ra khỏi lều, cát vàng sàn sạt dưới chân ủng chiến. Một bàn tay vốc một nắm cát, Lục Quảng Bạch quay lưng về nền trời ảm đạm, thư Khải Đông vẫn cầm trong tay. Hắn ngồi hồi lâu, gấp cất thư, cát trong lòng bàn tay chảy xuống.

Thích soái thấy chữ như thấy người.

Ta bỏ bê chức trách, tự tiện rời quận, lòng thẹn với thân lão Khải Đông, không thể ra trận giết giặc thì không thể tỏ chí, ta vĩnh viễn là thuộc tướng của Thích soái. Tuy trận chiến này không thể đồng hành, nhưng sơn hà minh nguyệt, tất không phụ kỳ vọng của Thích soái.

===