Thương Tiến Tửu

Chương 266: Do Kính



Đàm Đài Hổ đỡ đao đứng, nghe lính trình bày xong tin rồi gật đầu, xoay người đi vào lều. Trong lều có mấy tay lính Đôn châu, tất cả đều là thuộc hạ thân tín của Đàm Đài Hổ, ở bên trong rút tẩu thuốc.

“Phủ quân có lệnh,” một người trong đó hỏi, “sao tướng quân nhăn nhó thế?”

“Mẹ nó đừng có hút, lại hôi rình ra bây giờ!” Đàm Đài Hổ tháo đao, nói: “phủ quân muốn ta đến thao trường Bắc Nguyên điều binh.”

Mấy tay lính thấy mặt Đàm Đài Hổ khó đăm đăm nên không dám chày cối, ngoan ngoãn dập tẩu thuốc. Thanh niên vừa mới lên tiếng có mái đầu xác xơ như rơm, tên là Liễu Không, là lính chiêu mộ từ Phàn châu vào, mọi khi rất biết cách ăn nói nên được Đàm Đài Hổ ưng, đi theo Đàm Đài Hổ.

Liễu Không vén rèm cho bay mùi, đi tới cạnh Đàm Đài Hổ đùa: “Phủ quân chịu dùng tướng quân, tức là không coi lời của Vương Hiến ra gì rồi, chỉ tin lời của tướng quân thôi đấy.”

“Tất nhiên phủ quân phải tin ta chứ.” Thanh đao của Đàm Đài Hổ rơi “canh” phát xuống bàn.

“Thế sao tướng quân hẵng còn bực?”

“Phủ quân phái Dư Tiểu Tái đến đốc quân, đang trên đường rồi, mai là đến nơi,” vết sẹo đao trên mặt Đàm Đài Hổ khẽ nhăn nhó co giật, “trước đây Nhị gia không có cái quy định đấy.”

“Tướng quân là thân tín của Nhị gia,” Liễu Không thu lại vẻ cười cợt, “với phủ quân thì chưa hẳn.”

Nghe vậy, mặt Đàm Đài Hổ càng u ám. Sau khi bị Tiêu Trì Dã khiển trách, hắn đã chịu đòn tạ tội trước Thẩm Trạch Xuyên ở Đoan châu, về Đôn châu hắn lại còn phải đền công quỹ cho nha môn. Nếu mùa xuân năm sau không có chiến tranh, lính của hắn sẽ phải giúp nha môn Đôn châu cày cấy. Cái đó thì cũng không sao, ngặt nỗi hắn không tài nào quên nổi hôm ấy, lúc nào cũng ngay ngáy lo Thẩm Trạch Xuyên sẽ vì chuyện này mà chán ghét hắt hủi hắn, mai mốt không thèm dùng nữa. Giờ Thẩm Trạch Xuyên vẫn dùng hắn, nhưng lại cử giám quân đến.

“Tướng quân,” Liễu Không hạ giọng, “phủ quân giỏi thuật chế hành, đó là đạo đế vương. Dư Tiểu Tái đại nhân là nghiệt đài sáu châu, đến chỗ của chúng ta, quyền cao chức trọng đè đầu được tướng quân, tướng quân cũng cứ nhịn trước đã, bao giờ Nhị gia về, tướng quân khắc sẽ có chỗ thanh minh.”

Đàm Đài Hổ nghe thế càng không yên tâm: “Giờ Nhị gia chỉ nghe phủ quân thôi, không nghe ta nói đâu, ta chỉ sợ đến lúc đấy lại thành đổ dầu vào lửa ấy chứ.”

“Tướng quân lại nhầm,” Liễu Không hiến kế cho Đàm Đài Hổ, “phủ quân điều tướng quân đến thao trường Bắc Nguyên chính là để tướng quân thủ Từ châu. Tướng quân kiêu dũng thiện chiến thế này, đảm bảo sẽ thắng lớn. Chừng nào tướng quân thắng trận, Nhị gia kiểu gì chẳng phấn khởi, đến lúc đó tướng quân đề cập với Nhị gia muốn rút đốc quân là thể nào Nhị gia cũng đồng ý thôi.”

Đàm Đài Hổ đắn đo miết: “Chờ đến lúc Nhị gia về có mà ăn Tết xong rồi.”

“Thế chẳng phải càng tốt sao, an nguy của sáu châu đều trông chờ vào tướng quân, công lao sẽ vĩ đại biết nhường nào!” Liễu Không thấy mặt Đàm Đài Hổ đang xuôi xuôi, bèn bồi thêm, “vả lại Dư Tiểu Tái đến thì tướng quân cũng chả cần phải sợ hắn làm chi, hắn là đô quan, lại còn là học sinh của Sầm Dũ Đô sát viện, ai mà biết được hắn có thật sự trung thành với phủ quân hay không? Tuy tướng quân không lấy bụng tiểu nhân đo lòng dạ quân tử, nhưng mà chiến sự nguy cấp, không thể không đề phòng.”

“Do Kính…” Đàm Đài Hổ nhất thời đăm chiêu.

Ờ ha, Dư Tiểu Tái là học trò của Sầm Dũ, hắn không quay về tiếp tục làm đô quan mà lại ở lại Trung Bác. Phủ quân tin tưởng hắn như thế, nhỡ hắn là gián điệp Khuất đô phái tới thì chẳng phải nguy cho phủ quân sao?

“Ngươi nói đúng,” Đàm Đài Hổ nhìn thanh đao trên bàn, “Nhị gia đã giao phó sáu châu cho ta, ta phải bảo vệ phủ quân và Từ châu, trận này chỉ có thể thắng không thể thua. Nếu đến lúc đó Do Kính mà làm gì bất thường… ta tuyệt đối không thể tha cho hắn!”

Liễu Không châm thuốc cho Đàm Đài Hổ, đưa qua, nói: “Tôi sẽ để mắt đến hắn hộ tướng quân.”

***

Tiêu Trì Dã gác tay gối lên giữa chốn đồng không mông quạnh, lắng nghe tiếng sóng dập dờn vỗ bờ Trà Thạch, lặng lẽ đếm dòng tinh tú trước mắt, đếm hết một lần là Thẩm Lan Chu, đếm lần nữa vẫn là Thẩm Lan Chu.

Lục Quảng Bạch thảy thêm ít củi vào lửa, nghiêng đầu nhìn sang phía trái yên tĩnh, hỏi: “Đệ mang theo chiến sĩ của bộ Hồi Nhan để đàm phán với A Mộc Nhĩ à?”

“Gì có chuyện đàm phán với A Mộc Nhĩ,” Tiêu Trì Dã liếc Lục Quảng Bạch, “Nhị gia bây giờ đánh đâu thắng đó, phải đàm phán thì cũng là lão ta đến đàm phán với ta.”

“Chả lớn tí nào hết,” Lục Quảng Bạch nói, “khẩu khí thì điên thôi rồi.”

“Lớn nữa đầu chạm trời luôn mất,” Tiêu Trì Dã thở dài tiếng đánh sượt, “ta đủ cao rồi.”

“Trinh sát bảo bộ Liệu Ưng trú đóng cạnh Cách Đạt Lặc cũng rút lui rồi,” Lục Quảng Bạch lật củ khoai lang vùi trong tro nhặt lên, “A Mộc Nhĩ đang muốn tập trung binh lực ở sâu trong đại mạc để đối phó với chúng ta.”

“Chắc thế,” Tiêu Trì Dã ngửi thấy mùi khoai thơm nức mũi, bèn ngồi phắt dậy, chẳng sợ nóng thọc tay vào lựa một củ ngon mắt, “A Mộc Nhĩ để Cáp Sâm làm chủ lực trung tâm, giờ Cáp Sâm chết rồi, những tộc còn lại đời nào chịu ở lại chiến địa đánh nhau hộ lão.”

“Đúng là ai cũng phải phát sầu vì quân lương,” Lục Quảng Bạch nói, “không còn Cáp Sâm, bộ Hồ Lộc sẽ mạnh mình lo mình, bọn họ có không đi theo A Mộc Nhĩ thì cũng có thể quay về ốc đảo hồ Xích Đề tiếp tục sống —— ta còn chưa ăn đâu đấy.”

Tiêu Trì Dã và Lục Quảng Bạch xơi thùm thụp tranh củ khoai cuối cùng, nóng đến mức cả hai thở phì phò.

“Có hay không có bộ Hồ Lộc cũng thế,” Tiêu Trì Dã khẽ hít một hơi, “ốc đảo của bộ Hồ Lộc cũng chẳng nuôi nổi sáu đội quân khổng lồ của A Mộc Nhĩ, không thì lão trồng lúa ở Cách Đạt Lặc làm gì? Đường vận tải Trung Bác vừa đứt, lão ta đã muốn tốc chiến tốc thắng.”

“Điều binh cũng thế,” Lục Quảng Bạch không chịu được nóng, hai tay chống gối, cảm thấy đầu lưỡi mất cảm giác luôn rồi, “nóng quá thể.”

Thần Dương vác túi khoai tới, thấy khoai trong đống lửa đã sạch bách, bèn quẳng bị nước cho bọn họ, chẳng biết nên dùng biểu cảm gì, phức tạp phát biểu: “Ông của tôi ơi… Ở đây còn mười mấy củ nguội mà…”

Tiêu Trì Dã tu nước ừng ực, khôi phục lại trạng thái bình thường, nói: “Cáp Sâm chết rồi, bộ Hãn Xà không còn được như xưa nữa, A Mộc Nhĩ mà muốn khôi phục lại uy danh thì phải thắng một trận cho các tộc khác xem. Lão ta muốn làm đại quân của đại mạc, kẻ khác cũng muốn, bộ Hãn Xà làm vương làm tướng ở đại mạc ngần ấy năm, giờ lại bị trọng thương, A Mộc Nhĩ cấp tốc điều động binh mã cũng là để tự vệ.”

Lục Quảng Bạch vỡ ra, cười: “Đệ đang muốn để bộ Hồi Nhan đàm phán với các bộ khác, cắt đứt ngoại viện của A Mộc Nhĩ chừng nào lão tập trung binh lực, liên minh với các bộ tộc khác để vây diệt lão.”

“Bao năm nay, nhờ có hỗ thị,” Tiêu Trì Dã đóng nắp bị nước, “bộ Hồi Nhan đã không còn là bộ nhỏ nữa.”

Lục Quảng Bạch cầm bị nước của mình, cùng Tiêu Trì Dã phóng mắt ra đồng hoang ngút ngàn. Sóng Trà Thạch ca miên man, ấy là lời hồi đáp muôn đời của non sông.

“Đánh xong trận này,” Lục Quảng Bạch nói, “ta sẽ về Khải Đông.”

“Làm gì,” Tiêu Trì Dã cười, “về ăn cát Biên Sa à?”

Lục Quảng Bạch gật đầu như thật: “Cát Ly Bắc bọn đệ bị lẫn bùn, ăn vào tưởng ăn cháo không.”

Dứt lời, hai người nghiêng đầu nhìn nhau, tức thì phá ra cười sằng sặc.

Lục Quảng Bạch uống một hớp, nói: “Hồi còn trẻ phục nhất cha đệ, lần nào gặp cũng muốn dọn đến Ly Bắc bọn đệ, muốn làm thiết kỵ Ly Bắc. Tiếc là sau đó anh em nhà ta chết hết, cha ta lúc đó đúng một lão già kiên cường bất khuất, hẵng còn lăn lê bò toài trong sa mạc, ngoài ta ra chẳng còn ai chịu ở quận Biên nữa.”

Tiêu Trì Dã co chân lên gác tay, nói: “Phải ta ta đã phắn lâu rồi.”

“Đúng là ta muốn phắn thật, hễ lần nào Khuất đô không cho lương thực là ta lại muốn phắn. Năm Hàm Đức thứ tư bọn mình vào đô, hoàng đế bắt ta quỳ ngoài cửa, lúc đó ta nghĩ, thôi, còn thế này lần nữa là ta sẽ làm Thẩm Vệ thứ hai thật cho xem.” Lục Quảng Bạch thở dài thườn thượt, “Ai biết đâu cuối cùng lại phắn thật.”

Tiêu Trì Dã nhớ lại chuyện đó, hắn quay sang nhìn Lục Quảng Bạch, nói: “Lúc đó Hải các lão gấp rút điều lương cứu nguy, nhưng lương mà Khuất đô cho quận Biên lại là lương hỏng, vụ đó cả ta lẫn Lan Chu đều nghĩ không ra, cứ đinh ninh là Tiết Tu Trác làm, sau đó càng nghĩ mới càng thấy lạ.”

“Ta cũng nghĩ không ra,” Lục Quảng Bạch đặt bị nước xuống, “hắn đã ép Ly Bắc phản rồi, chẳng có lý do gì để ép cả quận Biên phản nữa.”

“Nếu bọ cạp có thể hoán lương,” Tiêu Trì Dã nói, “huynh nhất định phải gặp chúng tận mặt.”

“Quan lại Khuất đô thì ta ít gặp,” Lục Quảng Bạch nói, “nhưng thái giám thì cả đống.”

Hắn nói xong, hai người im lặng chốc lát.

Lục Quảng Bạch bỗng đứng bật dậy, bị nước rơi bịch xuống đất, hắn nói: “Thái giám giám quân!”

***

Tiết Tu Dịch ngồi xiên xẹo trên ghế thái sư, bên cạnh có người đang tính toán sổ sách, hắn chỉ cần ngồi nhìn là coi như xong việc. Tay hắn mân mê quả cầu thủy tinh, đây là đồ chơi mới thó được, mẫu mã tinh xảo, hành thương đặc biệt cống cho hắn.

“Tìm cửa phỏng?” Tiết Tu Dịch hỏi, “thế thì ngươi cứ núp sau đấy làm gì? Ra đây nói năng nghiêm chỉnh cho bổn quan xem nào, ngươi muốn đến nha môn nào làm việc?”

Mắt gã đàn ông quấn khăn chít đầu lúng la lúng liếng nãy giờ, sáp tới gần Tiết Du Dịch, che miệng nói khẽ: “Muốn cầu xin đại nhân chuyển lời cho lão tổ tông.”

Vừa nghe chữ đó, Tiết Tu Dịch hỏi ngay: “Ngươi cũng là thái giám à?”

Gã đàn ông ngượng ngùng ấp úng: “Vâng…”

Tiết Tu Dịch hơi ngồi thẳng dậy, cho tất cả mọi người chung quanh lui ra, hoài nghi quét gã một lượt từ đầu đến chân, nói: “Khỏi che, phải để bổn quan xem trông người ngợm thế nào nào, nếu mà méo mó khó coi quá thì phải thương lượng lại giá đấy.”

Gã đàn ông tháo khăn chít đầu ra, ngoan ngoãn chờ một lát, không thấy Tiết Tu Dịch lên tiếng, bèn ngẩng đầu mau mắn hỏi: “Đại nhân không nhận ra nô tỳ sao? Đại nhân, nô tỳ là Nghênh Hỉ đi theo lão tổ tông đó. Nô tỳ được tiên đế bổ nhiệm năm Thiên Sâm, đến Khải Đông làm thái giám giám quân!”

Đúng là Tiết Tu Dịch không nhận ra thật, trước kia hắn toàn đụng mặt quan tép riu không, nào có cơ hội được tiếp xúc với thái giám? Bèn buông câu lập lờ: “Gặp rồi, gặp rồi.”

Mắt Tiết Tu Dịch lóe sáng, lập tức nhớ ra, thái giám giám quân phái đến Khải Đông hồi đó bị Thích Trúc Âm tống giam, sau khi về Khuất đô thì bị cách chức. Hắn tức thì trở mặt: “Chẳng phải ngươi bị bộ Hình bắt rồi sao!”

“Trời ạ,” Nghênh Hỉ cuống giậm chân bình bịch, “chuyện đó từ thuở xa lắc xa lơ nào rồi, Hoàng thượng cũng thay người rồi, tội của nô tỳ cũng qua lâu rồi!”

Tiết Tu Dịch bối rối lưỡng lự một hồi, đầu tiên là sợ Nghênh Hỉ lừa mình, đến lúc chuyển lời vào cung lại rước thêm phiền cho lão tổ tông; thứ hai là sợ tội của Nghênh Hỉ chưa được rửa sạch, quay qua quay lại bộ Hình lại mò tới hắn thì hắn chả thành không dưng chuốc họa vào thân à!

“Nô tỳ đến tìm đại nhân là vì phụng mệnh lão tổ tông,” Nghênh Hỉ lấy ra một tấm yêu bài từ trong ngực áo, hai tay dâng lên cho Tiết đại xem, “đại nhân xem, đây là yêu bài nội triều.”

Tiết Tu Dịch nương ánh nến lật kiểm tra tấm yêu bài, mặt sau quả thực có tên “Nghênh Hỉ”. Hắn cầm bài không đáp, hỏi: “Phía bộ Hình lo xong rồi à? Trong cung không như những chỗ khác đâu, nếu mà xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, đừng nói là bổn quan, có là lão tổ tông cũng chẳng bảo đảm được cho ngươi.”

“Đã xong rồi ạ,” Nghênh Hỉ sợ hắn không tin, “người lão tổ tông tìm, có thể giả được sao? Là giả thì nô tỳ đã chẳng đứng trước mặt đại nhân được rồi.”

Tiết Tu Dịch không muốn gây thù chuốc oán với nội hoạn, tên Nghênh Hỉ này mà thật sự là con nuôi cháu nuôi của Phúc Mãn, hắn chặn đường người ta ngoài cung thì lại khó ăn nói với Phúc Mãn ra. Hắn trù trừ một hồi, nói: “Ngươi chờ thêm đi, mấy hôm nữa có công công ra ngoài mua sắm, phải đến kho nội chúng ta chọn rau, đến lúc đó nếu mà tiện thì ngươi vào cùng.”

Nghênh Hỉ mừng rỡ, gật đầu như bổ tỏi.

Lòng Tiết Tu Dịch thấp thỏm không yên, dặn: “Đây chính là lão tổ tông sắp xếp.”

“Đại nhân yên tâm,” Nghênh Hỉ dúi một túi vàng vào tay Tiết đại, “nô tỳ rất sạch sẽ, đảm bảo sẽ không gây phiền phức cho đại nhân và lão tổ tông đâu.”

***

Mấy hôm sau, Đôn châu mưa nhỏ. Mưa nện xuống phiến lá ngăn ngắt, xối đen sì con đường đá. Đàm Đài Hổ đứng chờ bao lâu ở cổng, Liễu Không che ô cho hắn, hắn cằn nhằn: “Sáng nay bảo đến mà sao còn chưa đến vậy!”

“Chắc là bị trì hoãn giữa đường.” Liễu Không nghển người ngó quanh, trông thấy một chiếc xe ngựa xuất hiện từ trong mưa, bèn nhắc, “Tướng quân, Dư đại nhân tới rồi kìa!”

Con ngựa mắc mưa, bờm lông ướt nhẹp, đậu bên cạnh Đàm Đài Hổ rũ bờm. Đàm Đài Hổ giơ tay vỗ cổ con ngựa cái, bảo phu ngựa: “Chạy cả đường rồi, lát dắt vào chuồng ngựa đi cho nó nghỉ.”

Đang nói thì thấy rèm xe chợt vén lên, Dư Tiểu Tái ló mặt ra, chắp tay với Đàm Đài Hổ.

“Người quen cả, khỏi khách sáo hành lễ.” Đàm Đài Hổ vừa nói vừa liếc vào trong xe, “Vương Hiến không tới à?”

“Phủ quân đã về Từ châu, Đoan châu còn phải cung cấp lương cho Nhị gia, cần có người giám sát nên hắn ở lại Đoan châu.” Dư Tiểu Tái xuống xe, binh lính bên cạnh định che ô cho hắn, hắn lại nhận ô tự mình che luôn cho cả Đàm Đài Hổ, hai người cùng đi vào trong. Dư Tiểu Tái nói: “Ngươi là tướng quân của Đôn châu, hắn là chưởng quỹ tiền của sáu châu, lão Hổ à, mích lòng ai cũng chớ có làm mích lòng chưởng quỹ tiền chứ.”

Mưa gõ lộp độp vào chiếc ô giấy dầu, Đàm Đài Hổ nói: “Ta nào dám làm mích lòng hắn? Mai mốt hắn đến Đôn châu chỗ ta, ta sẽ cho quân nghênh đón mười dặm, bảo đảm sẽ nói năng thật nhỏ nhẹ với hắn.”

Dư Tiểu Tái biết hắn hẵng còn giận, bèn khuyên: “Lão Hổ, ngươi đừng cảm thấy bọn ta coi thường võ tướng, cái đó là nếp xấu của Khuất đô. Nay sáu châu đã bình định, làm gì cũng phải có lề lối phép tắc. Ta lắm lời một câu với ngươi, chuyện chuẩn bị quân lương, ngươi là quan tâm quá thành rối. Ngươi ưu tư vì quân lương, đây là lòng trung thành với Nhị gia, đổi lại là người khác thì đã chẳng nỡ trách ngươi, nhưng việc này rõ ràng phủ quân đã giao cho Mẫn Thận huynh đi làm rồi,” tay áo Dư Tiểu Tái dính mưa, hắn đổi tay cầm ô, đồng thời xoay người, nói tiếp, “đó chính là nhiệm vụ được ủy nhiệm đàng hoàng, ngươi hỏi ở sảnh đường, sao hắn có thể đáp ở sảnh đường được? Sổ lương là bí mật của nha môn mà, đâu thể nói bô bô ở chỗ công cộng được.”

Đàm Đài Hổ nghe ra ý, Dư Tiểu Tái đây là đến để giảng hòa, muốn hắn và Vương Hiến xí xoá bất hoà. Hắn không cần phải cố kiết bám khư khư lấy chuyện này, hắn thấy Vương Hiến chơi không đẹp, có vấn đề sao không nói thẳng ở Đôn châu đi? Lúc đi còn nói nói cười cười ra chiều thân thiện lắm, thế mà quay đi quay lại đã mách lẻo hắn cho phủ quân rồi!

“Mẫn Thận huynh là đô quan, mới đến, khó tránh khỏi có người không phục,” Dư Tiểu Tái rủ rỉ, “ngươi là thân tín của Nhị gia, đương nhiên hắn cũng không dám gây sự với ngươi, nói cho phủ quân cũng chỉ nói đúng sự thật. Hắn có công chuẩn bị quân lương, lại còn rành chính vụ kinh tế, phủ quân chắc chắn sẽ để hắn tham gia quân chính, sau này các ngươi sẽ còn đụng mặt nhiều. Dù gì về sau ngươi điều binh cũng đều phải bàn quân lương quân phí với hắn, căng thẳng thế này thì không ổn.”

Dư Tiểu Tái nói có lý, nhưng Đàm Đài Hổ chẳng nghe lọt. Chẳng phải Dư Tiểu Tái đang thấy bất công thay cho Vương Hiến sao, Vương Mẫn Thận mới tới nơi vướng lắm rắc rối, cho nên Đàm Đài Hổ hắn bị thế này cũng đáng lắm à? Hắn cứ nghĩ tới vụ sổ lương là bụng lại tức anh ách, trước khi đi Vương Hiến chẳng ho he một chữ với hắn, lúc hắn khao quân phòng vệ Đôn châu cũng chẳng có ai trong nha môn bảo phải sung từ công quỹ. Cuối cùng thì hắn cũng nghĩ thông rồi, đây là nha môn Đôn châu dùng Vương Hiến để gạt hắn đi.

Dư Tiểu Tái cũng hiểu, nha môn Đôn châu không dám thái độ thẳng mặt với Đàm Đài Hổ nên mới xỏ lá hắn. Đàm Đài Hổ là chủ tướng Đôn châu, vậy mà đến cả sổ lương Đôn châu hắn còn chưa từng xem qua, đây chẳng phải là quan lại nha môn đang chơi hắn đấy sao? Hắn phải ngậm bồ hòn làm ngọt, có khổ mà không thể nói trước mặt Thẩm Trạch Xuyên và Tiêu Trì Dã, chuyện bày tiệc bừa phứa cũng làm hắn hổ thẹn lắm chứ.

Chỉ là giờ đang là thời điểm đặc biệt, không thích hợp để truy cứu chuyện này.

Dư Tiểu Tái đưa ô cho Đàm Đài Hổ cầm, khẩn khoản: “Lão Hổ, ngươi là người thẳng tính, chỉ biết tiến không biết lùi, tính tình thế đi làm, khó tránh khỏi chịu thiệt. Bọn họ làm khó ngươi không phải vì ngươi có quân quyền. Ta khuyên ngươi lại lần nữa, nếu ngươi không có ý định làm quan thì đừng xích mích với bọn họ. Ngươi chiến công hiển hách, phủ quân sẽ không để ngươi phải chịu bất công. Ngươi tưởng phủ quân không nhìn thấu chuyện lần này ư? Nhị gia giận như thế mà phủ quân vẫn để ngươi về lại Đôn châu như trước, chẳng phải là đang chống lưng cho ngươi đấy sao? Phủ quân đây là đang đánh bọn họ một đòn thay ngươi đấy! Ngươi chớ có giận phủ quân, kính cẩn nhận tội, đàng hoàng bù lại công quỹ. Chỉ cần ngươi chịu viết thư làm lành với Mẫn Thận huynh, ta đảm bảo, chưa đến nửa tháng, phủ quân sẽ thưởng ngươi.”

Làm đô quan dễ vậy ư? Ai mà bảo làm đô quan dễ thì là xạo sự rồi. Phàm là quan viên có thể có chỗ đứng ở Khuất đô, bất luận xuất thân lớn hay nhỏ, cũng đều là người đã kinh qua thời Vĩnh Nghi, Hàm Đức Hoa Phan quyền khuynh triều dã, hiểu thời thấu thế nhất. Dư Tiểu Tái xuất thân hàn môn, lúc thế gia cầm chính hay ra ngoài địa phương công tác, tiếp xúc giao thiệp với đủ thể loại yêu ma quỷ quái địa phương, năm nào đô sát cũng đạt xuất sắc. Sầm Dũ đề bạt nhiều học sinh như thế mà chỉ có mình Dư Tiểu Tái có thể gồng gánh đặng. Những lời hắn nói với Đàm Đài Hổ đều là xuất phát từ tận đáy lòng.

Môi Đàm Đài Hổ mấp máy, cục khí nghẹn trong họng.

Dư Tiểu Tái trông Đàm Đài Hổ hãy còn hậm hực, biết ngay là hắn không nuốt trôi rồi, bèn nhanh trí nói: “Nếu ngươi có thể xuống nước làm hòa với Mẫn Thận huynh, chẳng phải sẽ chặn được miệng lưỡi người khác sao? Bọn họ chế giễu ngươi là Ngô Hạ A Mông*, ngươi nhất quyết không để bọn họ được như ý, cho bọn họ xem xem bản sắc hào kiệt của ngươi thế nào!”

(*Lã Mông, danh tướng thời Đông Hán, hay bị mọi người chê cười vì ban đầu ít học.)

Tính tình Đàm Đài Hổ nóng nảy, không nên kích động, song tâm tư hắn đơn thuần chứ không xấu, đầu đã nghĩ thông là sẽ chịu làm thôi. Lập tức nắm chặt cán ô, giọng ồm ồm: “Nhị gia giáo huấn ta, ta biết sai rồi, đáng nhẽ ra không nên bày tiệc, nhất định phải bù cho công quỹ. Ở Đoan châu dập đầu ông đây cũng còn dập rồi, xin lỗi Vương Mẫn Thận thì có là cái muỗi gì.” Hắn quệt tay xuống đao, “Đêm nay ta sẽ viết thư cho Vương Hiến.”

Mưa bắn xáo xào, nước đọng từng vũng từng vũng trên mặt đất, thanh âm nhập nhằng đến mức Liễu Không chẳng nghe rõ hai bọn họ nói gì. Gã cầm ô, không thể đi quá sát, chỉ có thể bám gót theo sau. May mà quãng đường này không dài, vào đến doanh, ô còn chưa cụp, Đàm Đài Hổ đã bảo gã đi chuẩn bị nồi.

“Trời lạnh, đường khó đi, mai hai chúng ta lại phải lên đường đến Từ châu,” Đàm Đài Hổ cởi áo choàng, xắn tay áo lên, “tối nay ăn lẩu cho ấm nhé. Liễu Không, đi làm mấy con thỏ ta bắt đi, ta với Do Kính làm đồ nhắm.”

Liễu Không vâng liên tục, xăng xái cởi áo choàng cho Dư Tiểu Tái rồi mắc lên cái giá áo nhỏ trong lều.

Dư Tiểu Tái xoa tay nhìn quanh quất căn lều, nhận xét với Đàm Đài Hổ: “Chỗ này của ngươi đơn sơ quá! Ta nghĩ…”

Liễu Không đi đến cửa, hạ rèm, chặn lại tiếng Dư Tiểu Tái.

***

Trời mưa đường trơn, mã đạo chòng chành. Thẩm Trạch Xuyên vốn đang đánh cờ với Diêu Ôn Ngọc, đánh được nửa ván thì lại thấy váng đầu khó chịu. Phí Thịnh bèn vén rèm lên một chút, y tựa vào cửa chầm chậm lại sức.

“Do Kính nhanh trí,” Diêu Ôn Ngọc nhìn mưa, “nói năng dí dỏm mà lại không kiêu căng hách dịch. Phủ quân phái hắn đi giám quân là hợp nhất rồi.”

“Do Kính lúc nhàn thì có thể pha trò, lúc nguy cấp lại không phạm sai lầm,” người Thẩm Trạch Xuyên rịn chút mồ hôi lạnh, dựa vào gối mềm, “hắn không đen trắng rõ ràng như Chu Quế, khôn khéo hơn chút.”

Diêu Ôn Ngọc vén tay áo dọn quân cờ.

Thẩm Trạch Xuyên nghe mưa rơi dày đặc ngoài cửa sổ, ngón tay vẫn nắm quân cờ khẽ nhịp bàn theo tiếng mưa, hồi lâu sau, cất tiếng: “Nước trong thì không có cá, đục quá cũng khiến người ta băn khoăn.”

===