Thương Tiến Tửu

Chương 280: Lưu đày



Tiêu Trì Dã tỉnh dậy.

Hắn gối lâu đến mức hai tay mất cảm giác, mở mắt thao láo nhìn nóc lều một hồi, cảm thấy mình nằm mơ thấy mưa dông ở Khuất đô.

Lục Quảng Bạch vén rèm vào, đứng ở cửa dùng khăn lau mồ hôi trên cổ, nói: “Ưng tuần sát phát hiện chim cắt ở vùng cận Đông, Cốt Tân tìm thấy dấu chân ngựa ở đó, là đội vận tải của bộ Hồ Lộc.” Hắn cho khăn vào chậu giặt, “A Mộc Nhĩ không chịu đầu hàng, thế này là muốn tử chiến một trận rồi.”

Tiêu Trì Dã trở mình ngồi dậy, gập chân gác một tay lên, nói: “Sắp sang mùa đông, bộ Hồ Lộc không thể chăn dê, đó là lương thực cuối cùng của bọn chúng.”

“A Mộc Nhĩ cố tình không xuất hiện là để dưỡng sức, nhìn thấu được ý đồ cắm sào đợi nước của đệ.” Lục Quảng Bạch vắt khăn, “Lão đang mua thời gian.”

Để cung ứng cho Cáp Sâm, bộ Hồ Lộc đã dốc kiệt tinh lực, lương thực cung cấp cho A Mộc Nhĩ hiện giờ là lương khẩu phần của toàn tộc, nếu thật sự muốn chống chọi được qua mùa đông buốt giá này, bọn chúng sẽ phải giết dê bò của mình. A Mộc Nhĩ đã là mũi tên chót của chiếc nỏ mạnh rồi, lão còn chờ gì nữa?

Rèm cửa cuốn lên, Tiêu Trì Dã đứng dậy, hơi khom lưng chui ra khỏi lều. Hắn ngắm nhìn những cồn cát mênh mang, Mãnh bay từ trên cột cờ sà xuống cánh tay phải giơ lên của Tiêu Trì Dã.

“A Mộc Nhĩ là một tướng giỏi,” Tiêu Trì Dã nói, “nhưng lão ta còn là một chính khách giỏi hơn nữa.”

A Mộc Nhĩ có năng lực kiềm chế phi thường, lão mở ra chiến trường Nam Bắc, thành lập nên bọ cạp trắng đen đều là nhờ khả năng này. Lão già rồi, không thể dũng mãnh trên chiến trường như Cáp Sâm nữa, song điều ấy không có nghĩa lão bất lực trước Tiêu Trì Dã. Thời đỉnh cao của lão đã qua, chỉ còn một biện pháp duy nhất có thể khiến Tiêu Trì Dã lui quân, đó chính là tiêu diệt Thẩm Trạch Xuyên, hậu thuẫn của Tiêu Trì Dã.

Ánh mắt Tiêu Trì Dã sắc lạnh, quay lại nhìn Lục Quảng Bạch, nói: “Lão đang chờ tin từ Khuất đô.”

***

Câu ấy của Đàm Đài Hổ như chọc thủng chiếc tổ ong vò vẽ, còn chưa kịp né đã bị loan đao trước mắt xoẹt ngọt một đường đi tong búi tóc. Tóc đen bung xõa “loạt roạt”, đứt mất nguyên một đoạn bự, phần giữa xém nữa trọc!

“Con chó này,” Đàm Đài Hổ cầm mớ tóc ngắn ngủn lên, “tạp chủng nội ứng ngoại hợp bán nước thật sự ở đây này!”

Nước mưa văng tung tóe theo lưỡi đao, hàng loạt quân sĩ giương ngang đao cự khôi giáp trong lối thông, gồng sức dồn về trước. Rất ít tạp quân mang loan đao, vũ khí này quá bắt mắt, đa số bọn chúng chọn mang dao lê bên cạnh bội đao.

“Cổng thành đã phá,” Thẩm Trạch Xuyên dứt khoát quyết định, gấp “soạt” quạt vào, “bảo Thần Uy, trong Khuất đô có người Biên Sa ẩn nấp, chúng ta không vào cũng phải vào.”

Phí Thịnh không dám lề mề, vứt mũi tên đi nhảy phốc lên ngựa, đồng thời chỉ về phía lối vào cho thuộc hạ: “Truyền lệnh phủ quân——”

Sầm Dũ và học sinh còn chưa quay về trong thành Khuất đô, đã thấy đằng trước có người phi nước kiệu xông vào doanh trại, hô về hướng lều: “Trong Khuất đô có kỵ binh Biên Sa, vạn sinh mạng ngàn cân treo sợi tóc, Cao Trọng Hùng nghe lệnh!”

Cao Trọng Hùng đột nhiên đẩy hết giấy tờ lộn xộn ra, cầm bút lên, chấm mực giữa tiếng mưa như thác xối, tĩnh khí ngưng thần.

“Trời giúp phủ quân,” Diêu Ôn Ngọc bên cửa sổ ho khan, khẽ thở gấp chống người dậy, bảo Cao Trọng Hùng, “Khuất đô làm thế này không khác nào tự giết mình, hôm nay cái danh quốc tặc của Thẩm Vệ đã có thể nhường cho kẻ khác rồi. Thần Uy, phủ quân muốn ngươi nói cho người trong thiên hạ biết, nội hoạn ở Khuất đô.”

Bọ cạp đến quá đúng lúc, giống như Thiệu Thành Bích xuất binh khinh suất lúc trước vậy, cho Thẩm Trạch Xuyên một cái cớ trọn vẹn. Quân phòng vệ đánh vào thành không thể sát sinh, muốn quét sạch mấy chục ngàn tạp quân là rất khó, nhưng một khi lũ tạp quân này biến thành bọ cạp, bọn chúng chính là giặc ngoài!

“Giặc ngoài trước mắt, cổng thành đã phá, kiêu chủ đắc đạo giục ngựa tới, đây là mệnh trời!” Diêu Ôn Ngọc bưng miệng ho đến nỗi sặc mấy lần, cuối cùng vịn mép giường, gắng gượng bật cười, “cờ tại triều cục thân bất do kỷ, thái phó quá giỏi, thanh đao hành thích vua Phong Tuyền này, chúng ta tiếp vững.” Y ngước đôi mắt ướt nhìn cơn dông, khàn khàn nói, “Tiết Diên Thanh thua rồi!”

Tiết Tu Trác thắng một ván trong cơn mưa dông, giết chết Tề Huệ Liên, xua đày Diêu Ôn Ngọc, bức tử Hải Lương Nghi, nhưng hắn cũng là quân cờ bị kiểm soát, Lục Quảng Bạch phản bội, Tiêu Trì Dã về đàn, Thẩm Trạch Xuyên bình Bác, cái gọi là tính mọi nước cờ chỉ là giả mà thôi, hắn là bị chính bản thân mình dồn đến đường cùng! Hắn hao tâm tổn trí truy lùng bọ cạp, nào có hay bọ cạp ở ngay bên cạnh hắn.

Tề Huệ Liên lật thuyền trong mương ư, Phong Tuyền không hiểu, người thông minh tuyệt đối sẽ không giẫm lên vết xe đổ. Thái tử thua vì bên cạnh có phản đồ, Tề Huệ Liên chắc chắn sẽ không để Thẩm Trạch Xuyên lại thua vì nội quỷ bên mình. Đông cung nhiều liêu thuộc như thế, cớ sao Tề Huệ Liên lại nhất thiết phải chọn hai nhà Thiệu, Kiều?

Bởi vì quá tội lỗi.

So với những người từ đầu chí cuối đều tận lực vì Đông Cung, Thiệu Thành Bích chính là cái “nút chết” ấy. Thời còn ở bộ Binh, ông ta chưa từng làm chuyện gì sai trái, chỉ bởi quá trọng tình cảm dẫn đến rối loạn công tư. Để bảo vệ Kiều thị, ông ta đã phải ép dạ cầu toàn, thế nhưng Kiều Khang Hải vẫn chết. Ông ta phản bội chủ cũ Đông Cung, vậy mà lại chẳng cứu được bất kỳ ai, thậm chí cả con trai mình cũng từ bỏ. Đó chỉ là khởi điểm, giây phút án Trung Bác binh bại bùng nổ cũng là lúc Thiệu Thành Bích tự giam cầm mình, trở thành tù nhân muôn đời suốt kiếp của hai chữ “lương tâm”.

Món nợ máu này vượt quá mọi tư tình của Thiệu Thành Bích, bởi vậy ông ta có thể đâm mù mắt mình, uống thuốc hỏng giọng mình, rồi đưa ra con trai của chính mình. Ông ta quỳ xuống khóc lóc trước tượng Phật, nhưng Tề Huệ Liên không cần ông ta.

Đây là chỗ tàn nhẫn nhất, cũng là chỗ cao minh nhất của Tề Huệ Liên.

Khi còn sống, thái phó chưa một lần dùng đến Thiệu Thành Bích, lúc ông chết, mỗi một ngày, Thiệu Thành Bích lại khổ sở thêm một phần. Thiệu Thành Bích bị nỗi thống khổ và tội lỗi ấy giục giã, ông ta cũng giục giã Phong Tuyền như thế. Phong Tuyền sống lay lắt trong khe nứt, bất kể đến tột cùng gã là quân cờ của ai, Tề Huệ Liên đều dám đánh cược gông xiềng của gã vào chữ “cha”. Thiệu Thành Bích chính là cái khóa của Phong Tuyền, dẫu sống hay chết. Lúc tạm biệt Thiệu Thành Bích, Phong Tuyền đã kề dao cạo bên cổ Thiệu Thành Bích rồi, vậy mà lại không hề xuống tay.

Tiết Tu Trác coi người như quân cờ, Tề Huệ Liên coi quân cờ như người. Ở chùa Chiêu Tội ông dạy Thẩm Trạch Xuyên thuật chế hành, tất thảy điểm yếu đều ở một chữ “tình”.

Thẩm Trạch Xuyên mở mắt ra, nhìn thấy phía cuối con đường cổng Đông.

Mưa tuyết giăng màn, cảnh xưa lãng đãng.

Dường như dáng lưng Tề Huệ Liên hãy còn đứng nơi đó, ông giơ cao hai tay, kéo theo xiềng xích, ngửa mặt gào một tiếng cuối cùng mà chẳng nỡ quay đầu nhìn Thẩm Trạch Xuyên.

Lan Chu à.

Đừng sợ.

Thẩm Trạch Xuyên nhắm mắt, rồi mở ra, Phong Đạp Sương Y bỗng lao vụt về trước, tay áo phần phật tung bay trong sương tuyết kéo theo đôi ngọn cuồng phong. Y tựa mũi đao lạnh buốt sắp vào bao trong mây đen, ắt phải đâm thủng đất trời trong thời khắc này.

Người đắc đạo, thiên kinh địa nghĩa!

Lôi đình rền vang như dán vào da đầu, La Mục đã mất kiểm soát tạp quân, ông ta hốt hoảng lui về sau giữa toán binh lính hỗn loạn, gào gọi chúng triều thần: “… Quân tráo rồi!”

Mưa tuyết mờ mắt, Tiết Tu Trác đứng không vững, hắn đứng cùng chúng triều thần trên tường thành nhìn Thẩm Trạch Xuyên phi ngựa dẫn đầu, sĩ khí quân phòng vệ tăng vọt, ồ ạt xung phong theo tà áo trắng, bất khả chiến bại! Cấm quân ở cổng Nam đối đầu với đô quân, bọn họ còn thông thạo ngóc ngách đường ngõ Khuất đô hơn cả đô quân, về chiến đấu đường phố thì chắc chắn là vô địch.

Máu văng tóe tung lên tường, cờ tửu (*) quầy sạp lăn lóc trên đường theo tràng giết chóc.

(*Cờ treo ngoài khách sạn, phong tục Trung Quốc cổ. Bên trên có viết chữ tửu – 酒 đại diện cho 酒店 – khách sạn, nhà nghỉ,…)

Thẩm Trạch Xuyên giục ngựa vào lối thông, hệt như tưởng tượng của y, chính diện đạp mở cổng Khuất đô. Phí Thịnh bên cạnh giương cao cờ Trung Bác, quân phòng vệ bất chấp mưa tên trên đầu tường lũ lượt ùa vào.

“Thành phá rồi——!” một tiếng khóc thê lương vang vọng trước cửa Thái học, ngay lập tức, mấy ngàn học sinh đồng thanh gào khóc trong trận mưa băng mịt mùng.

Khổng Tưu loạng choạng bước về phía trước, đỡ gò tường khóc nghẹn: “Đại Chu quốc phúc trăm năm…”

Chuông trên núi Bồ Đề tỏa “đinh đang”, tiếng chuông ngân vang phiêu du trong sóng gió, làm con sẻ giật mình vút bay lên tầng mây trùng điệp. Cổng thành đổ vang rền, vô vàn hịch văn tứ tán trong không trung.

Hai má Tiết Tu Trác ướt lạnh, hắn ngẩng mặt nhìn mây đen, gánh nặng đè trĩu hai vai ngần ấy năm đã sụp đổ theo cổng thành, cùng hóa thành tro bay. Hắn nâng tay lau sạch mưa trên mặt, lắng nghe tiếng khóc cất dậy tứ bề.

Kết thúc rồi.

Ánh mắt Tiết Tu Trác tựa hồ nước phẳng lặng, hắn trầm mặc vứt yêu bài đi, yêu bài khắc chữ Lý thị loáng ánh vàng rơi xuống đất, bị vó ngựa băng qua xéo gãy, tan tác trong bùn.

Đàm Đài Hổ dồn loan đao, đẩy đối phương về đằng sau, chân bước loạn xạ. Hắn bất chợt vung đao chém ngang, lưỡi đao sượt qua loan đao cắt lìa ngón tay đối phương. Đàm Đài Hổ đạp đối phương ngã chổng vó, vung đao phá mở đường máu vì Thẩm Trạch Xuyên, gào khản giọng: “Giết địch!”

***

Lưỡi kiếm Kiều Thiên Nhai để ở bụng ngón tay, mưa vẫn đang rơi ngoài điện, nhưng gió đã ngừng thổi. Lụa rũ xuống đất, vũng nước nhỏ dưới chân hắn hắt lại mũi kiếm.

Phong Tuyền nâng tay đẩy rơi ngọn đèn cuối cùng. Diềm áo gã lướt qua ánh lửa leo lét, nói: “Ngươi làm đao của Thẩm Trạch Xuyên, phải giết ta.”

Tóc trên trán Kiều Thiên Nhai xõa xượi, che đi tầm mắt hắn.

Chẳng biết Phong Tuyền đang khóc hay đang cười, bờ vai khuất tối rung lên, nhẹ nhàng vỗ tay.

Nước chảy xuôi tóc nhỏ tí tách xuống mũi Kiều Thiên Nhai. Kiếm của hắn nháy mắt rời vỏ, ánh tuyết lóe sáng giây phút sắt va chạm vang lên một tiếng “keng”, đánh rơi chiếc châm sắt phi tới.

Quan nhân mang áo mũ đứng khuất sau lụa trắng, nâng tay cởi mũ trên đầu xuống. Trong Minh Lý đường chỉ có tiếng cười “khanh khách” của Phong Tuyền, tên quan nhân xuất hiện không một động tĩnh tựa ma quỷ, đối mặt với Kiều Thiên Nhai qua lụa trắng.

Giọt nước rỏ một tiếng “tong”, mất hút.

Thân hình Kiều Thiên Nhai nhảy bật lên như con báo hừng hực phẫn nộ. Tất thảy không cam lòng của hắn hóa thành mũi kiếm xé rách lụa trắng, đâm tên quan nhân đến nỗi hắn phải phi về đằng sau.

Tên quan nhân túm tay áo giấu mánh, phi một loạt chỉ bạc ở giữa ngón tay găm vào cột son lúc Kiều Thiên Nhai nhảy ra tránh, rồi ngay lập tức chạm đất bật lộn một vòng nhẹ tênh như yến nhờ chỉ bạc.

Sáp chảy xuống đất, lửa liếm nền nhà, đuổi theo tay áo Phong Tuyền cháy lên.

***

Tuy quân phòng vệ không giết dân, người dân cũng chạy trối chết giữa trận hỗn chiến. Đường phố quá loạn, Đàm Đài Hổ đẩy người dân, chỉ sợ bọ cạp thừa nước đục thả câu.

“Lùa dân!” lòng bàn tay Đàm Đài Hổ be bét máu, trơn trượt đến nỗi cầm đao còn không chắc.

Nhưng muộn rồi, dân chúng tắc nghẽn trên phố xá đụng phải đội quân bọ cạp, trời tối mò thế này, làm sao bọn họ phân biệt nổi rốt cuộc đối phương là ai. Bọ cạp vung loan đao giết người, ngẩng đầu hô một câu bằng tiếng Đại Chu lưu loát: “Phủ quân nói, giết hết Khuất đô!”

Phí Thịnh giơ đuốc lập tức gào lên: “Lũ trọc Biên Sa trà trộn vào thành, tạp quân của La Mục là gian tặc chân chính! Không muốn chết thì chạy mau!”

Bách tính xáo xác giữa đường nào có nghe thấy Phí Thịnh nói gì, bọn họ chen lấn tới trước mặt bọ cạp, có người chết, lại quay đi chen lấn về phía quân phòng vệ. Phố không đủ rộng, đằng sau lại còn có xe công đổ chặn đường, quân phòng vệ bị đám đông phá loạn trận hình.

Bọ cạp không mặc giáp, bọn chúng trà trộn vào bá tánh chạy loạn, lúc đi qua quân phòng vệ thì thần không biết quỷ không hay thọt một nhát, những lính phòng vệ không kịp đề phòng ở tuyến đầu lập tức ngã mười mấy người.

“Phản đảng Trung Bác giết người rồi!”

Người dân chạy trối chết thảm thương bưng mặt gào khóc thất thanh, tiến lùi đều không được, giữa tầng mê trận bóng chồng, bọn họ nhầm quân phòng vệ thành bọ cạp, lầm tưởng mình đã bị quân phòng vệ bao vây, nhất thời những tiếng kêu khóc vang lên chấn động trời cao.

Oái oăm rồi đây!

Phí Thịnh trở đầu ngựa quay về bên cạnh Thẩm Trạch Xuyên, nói: “Chủ tử, giờ phải làm sao đây? Các tuyến đường lớn đều bị tắc hết rồi!”

Lúc này trời đã tối, cờ xí bén lửa cháy phừng phừng giữa bầu không, mưa ngớt dần, tuyết hóa mỏng như xơ bông.

Thẩm Trạch Xuyên nắm dây cương trông về phía tường thành, nói: “Thắp chòi canh, cướp cổng đánh chuông báo hiệu cho cấm quân phá cổng Nam khơi thông phố.”

Quân phòng vệ hai bên vượt qua nhanh chóng, trên tường chẳng còn bao nhiêu tên, bên dưới thành toàn đánh giáp lá cà. Quân phòng vệ bất thình lình thắp đuốc, cướp chòi canh trở nên cực kỳ trọng yếu.

Thẩm Trạch Xuyên mang dao găm theo mình, một luồng gió vạch qua ngay trong đám đông bên cạnh ngựa, y lập tức tránh, một lưỡi dao lê đâm “xoẹt” qua bên má, vụt ra luồng dư cảm lạnh lẽo.

Dao găm thình lình rời vỏ, tay trái Thẩm Trạch Xuyên xoay hất lưỡi dao lê. Song vết thương của y còn chưa khỏi hẳn, chỉ đánh lệch được mũi dao. Bọ cạp tức thì buông tay, lúc lưỡi dao lê rơi xuống trở tay bắt lại đâm ngang vào cổ Thẩm Trạch Xuyên.

Lá cờ trên đỉnh đầu đột nhiên bốc cháy hừng hực, tro bụi bay mù mịt khắp không trung, lúc cờ bén lửa Thẩm Trạch Xuyên mượn lực nhảy phốc khỏi lưng ngựa. Phong Đạp Sương Y thần giao cách cảm cất vó chạy, y đã tránh được cú đâm hiểm, nhảy mấy bước theo Phong Đạp Sương Y. Tên bọ cạp vồ hụt, trong giây phút lơ là ngắn ngủi đã bị Thẩm Trạch Xuyên chộp lấy cánh tay đang giương ra.

Tên bọ cạp ngớ ra, kế đó hớn hở kháo lại bằng tiếng Biên Sa: “Y không có lực——”

Còn chưa nói hết câu, Thẩm Trạch Xuyên đã buông tay, tay trái y bỗng bổ một cái xuống cánh tay tên bọ cạp, hắn tưởng y định vật qua vai, bèn lập tức bước chân ra định bụng trầm mình đứng vững, nào ngờ Thẩm Trạch Xuyên lại xoay mình tung một cú đá vào thẳng ngực tên bọ cạp.

Hắn bạnh tay gầm lên: “Châu chấu đá xe!”

Hai ngón tay thon dài của Thẩm Trạch Xuyên điểm vào giữa trán tên bọ cạp, hắn nghi có trá, bèn lập tức nhắm mắt. Ngờ đâu Thẩm Trạch Xuyên lại cười một tiếng rất khẽ, dao găm thả khỏi tay rơi xuống dưới, một chân dồn lực, lại xoay người một lần nữa đá con dao vào tên bọ cạp, hắn không đề phòng, bị dao găm thẳng vào bụng dưới, gào lên thảm thiết, máu phọt tứ tung.

Thẩm Trạch Xuyên ngó lơ, ánh lửa đằng sau sáng rực rỡ, bóng y kéo dài theo chuyển động của lửa.

Phí Thịnh chọn thời hô toáng lên: “La Mục cấu kết với người Biên Sa, giặc ngoài trà trộn vào kinh thành, quân phòng vệ giết giặc, người khác mau tránh ra!”

Ngọn đuốc trên chòi canh cổng Đông cháy phừng phừng nghênh ngang giữa trời, lính phòng vệ giẫm lên lan can giương cao yêu bài Trung Bác, vận hết sức hô xuống phía dưới: “Phủ quân có lệnh —— giết giặc ngoài, giết loạn quân, giết gian tặc!”

Bọ cạp thấy kích động không có tác dụng, đường đi lại bị quân phòng vệ vây đến mức nước còn không lọt, đành phải rút về theo lối cũ. Khuất đô một bầu hỗn loạn, đô quân tử thủ cổng thành bị cấm quân giết máu chảy thành sông.

Gò tường đã bị phá sập hơn nửa, quan bào của Tiết Tu Trác rách tả tơi, trông hắn thảm hại cùng cực, mãi đến tận lúc bị một người ráo riết lôi đi.

Đứa câm dắt theo Cẩm ca nhi, trên vai vắt tay nải, miệng vừa kêu “A a” giữa những thanh âm đinh tai nhức óc vừa dùng tay ra dấu, kéo Tiết Tu Trác về phía bậc thang.

Tiết Tu Trác chuệnh choạng bước mấy bước, chống tường nhìn Cẩm ca nhi. Cẩm ca nhi là con trai của Tiết Tu Dịch, được Tiết Tu Trác nuôi bên mình, giờ đang hoảng sợ đến độ mặt mũi tèm lem nước mắt, hãy còn túm áo Tiết Tu Trác gắng nín khóc kêu: “Thúc, thúc thúc!”

Đứa câm sốt ruột giậm chân giật quan bào của Tiết Tu Trác liên hồi, ý muốn Tiết Tu Trác mau chạy đi.

Tiết Tu Trác đưa tay sờ má Cẩm ca nhi, hắn nói: “Con là đứa bé ngoan.”

Cẩm ca nhi ngửa cổ, cảm thấy nước mưa bắn vào má.

Tiết Tu Trác khom mình quay lưng về ánh sáng, che giấu tất thảy sự yếu đuối. Cả đời này của hắn chỉ có một khắc ngừng nghỉ ấy thôi, dường như chỉ có một khắc ấy là thuộc về bản thân hắn.

Đứa câm bỗng dưng bật khóc, gân cổ “A” lớn với Tiết Tu Trác, năm ngón tay túm đỏ lừ.

Tiết Tu Trác lại đứng thẳng dậy, nhẹ nhàng giãy khỏi ràng buộc của đứa câm. Hắn đẩy vai đứa câm, nói: “Các ngươi đi đi.”

Cẩm ca nhi òa khóc nức nở, vừa kéo Tiết Tu Trác vừa gào: “Thúc thúc!”

Tiết Tu Trác ngoảnh mặt lơ đi.

Đêm nay không mưa to bằng hai năm trước, nhưng hắn lại thấy được bầu trời âm u hệt thế. Vị khách độc hành canh giữ tòa thành này, trước khi ánh dương lụi tàn đã nghe thấy tiếng vọng của sự suy đồi, nhưng hắn không cam lòng, thứ hùng vĩ cường đại đã từng sừng sững nơi đây lại phải lui rời một cách quạnh hiu đến thế.

Tiết Tu Trác giẫm lên bậc thang, chậm rãi đi xuống. Hắn cô độc cất bước, không quay đầu lấy một lần.

“Ngươi phổ biến hoàng sách ở Trung Bác,” Tiết Tu Trác dừng bước, nói với Thẩm Trạch Xuyên, “là công lao của Nguyên Trác.”

Thẩm Trạch Xuyên không đáp.

Giữa những bóng hình mông lung tăm tối, Tiết Tu Trác phủi bụi trên tay áo, nói: “Ta tôn sùng Tề Huệ Liên, bước lên con đường của ông ấy,” hắn nhìn Thẩm Trạch Xuyên chằm chặp, “nhưng lại không ác được bằng ông ấy.”

Cược một cái mạng ư, quá đơn giản, khó là ở chỗ có dám đặt cái mạng ấy vào ván cờ hay không. Cái gì Tề Huệ Liên cũng dám, đằng sau những hành động điên rồ của ông là sự tin tưởng đối với Thẩm Trạch Xuyên.

Lan Chu không phải quân cờ trong ván cờ của ông.

Bởi lẽ ấy, Tề Huệ Liên chẳng để lại gì cho Lan Chu. Thẩm Trạch Xuyên không cần ràng buộc, Tề Huệ Liên đã uốn nắn y, trong năm năm sớm chiều bên nhau đó, đã vạch rõ phương hướng cho Thẩm Trạch Xuyên.

Tiên sinh dạy con thi thư, ban con tự Lan Chu.

Đó chính là tất cả của Tề Huệ Liên.

“Đại Chu đã trải qua những thời đại hào hùng, mấy trăm năm, giặc ngoài hùng mạnh đến mấy cũng không thể phá cánh cổng này, giờ lại thua dưới tay ngươi,” Tiết Tu Trác nhìn Thẩm Trạch Xuyên, “một con cá bơi dưới đáy nồi (*).”

“Ta đã nghe qua rất nhiều suy đoán, đến cả Nguyên Trác cũng đã từng lầm tưởng rằng, có lẽ ta là đứa con của Lý thị mà Thẩm Vệ cất giấu,” Thẩm Trạch Xuyên liếc mắt nhìn vương cung, “nhưng ta chính là tội thần. Thiên hạ đâm đầu chạy theo hoàng tự, chỉ có mình tiên sinh là đi ngược lại.”

Người đắc đạo, không phải do trời định.

“Tề Huệ Liên dùng sức của mình mình để xoay chuyển càn khôn, ta bội phục.” Tiết Tu Trác thở một hơi thật sâu, trầm giọng nói, “Chủ của ta còn trẻ, hôm nay người đến đầu hàng là Tiết Tu Trác ta. Cổng thành đã phá, quan đạo đã mở, Thẩm Trạch Xuyên, đừng giết người vô tội —— ta đến nghênh đón ngươi!”

Một câu ấy của hắn vang rền tựa sấm, chấn động đến tê liệt chúng triều thần trên tường thành. Mở cổng chịu hàng là nỗi nhục vạn kiếp, hôm nay Tiết Diên Thanh hắn một mình gánh chịu!

“Không…” Khổng Tưu thốt lên đau đớn, đấm ngực giậm chân, “Đại Chu…”

Chúng triều thần như chết cha chết mẹ, dìu đỡ nhau trong nỗi bi thương tột cùng.

Đầu hàng tức là đình chiến, quân phòng vệ Trung Bác không cần dồn tới nữa, Khuất đô đã thất thủ, mười ba thành Quyết Tây phía sau vẫn còn có thể bình an vô sự, đó là tâm huyết mấy năm của phái thực kiền, còn là kho lương sau chót của Đại Chu.

Khổng Tưu hiểu, đây là thượng sách cuối cùng, bọn họ đã thua triệt để trong ván cờ với Trung Bác. Tiết Tu Trác đã nghênh đón, Đại Chu không còn tồn tại nữa.

Khổng Tưu như muốn quỵ ngã, ông bấu vào gò tường, gương mặt già nua ứa lệ: “Hôm nay thiên hạ đổi chủ, là chúng ta vô năng.” Ông ngửa cổ nhìn hịch văn bay toán loạn trong không trung, vẻ cương quyết chậm rãi hiển lộ.

Thẩm Trạch Xuyên nhìn thấy biến hóa trên nét mặt Khổng Tưu, biết ngay không ổn.

Sắc trời u ám mây mù che trăng, mưa bắn mưa sa, quả nhiên Khổng Tưu ngẩng đầu, trầm giọng quát lên: “Ta là bề tôi của Đại Chu, không quỳ chủ thứ hai!”

Dứt lời quan bào phất lên, định nhảy xuống tường thành tuẫn quốc.

Phí Thịnh giật thót, thầm nhủ gay go rồi! Tiết Tu Trác nghênh quân quy phục nhưng vẫn chưa giao ra ấn ngọc của Đại Chu, tin Khổng Tưu nhảy tường truyền sang ngày mai sẽ thành Thẩm Trạch Xuyên bức ép đến đường cùng!

Phí Thịnh gào lên gọi lính phòng vệ đã đánh lên đến tường thành: “Ngăn ông ta lại!”

Chúng triều thần đang vây quanh Khổng Tưu, quân phòng vệ có nhanh cách mấy cũng không thể đủn hết người ra. Chỉ thấy quan bào của Khổng Tưu phần phật theo gió, người đã chúi qua tường, trong phút giây ngàn cân treo sợi tóc, một người bỗng nhào lên từ đằng sau túm lại quan bào của Khổng Tưu, Lương Thôi Sơn thất thanh: “Nguyên phụ không thể!”

Khổng Tưu khựng lại giây lát, sượt rơi một viên gạch bể trên đầu tường. Ông chống tay khóc thê thiết, bật ho khù khụ.

Lương Thôi Sơn vã mồ hôi như tắm, sau khi kéo Khổng Tưu về, hai tay hắn run lẩy bẩy. Hắn vẫn còn chưa hoàn hồn, xuyên qua đêm đen cùng ánh lửa, mặt bết mồ hôi.

***

Xe ngựa bị tập kích trên đường chạy về cổng Tây, khắp nẻo đường chật ních cơ man xe. Nhà giàu thu gom gia sản, định nhân lúc hỗn loạn bỏ trốn theo cổng Tây, bởi vậy con đường này bị tắc nghẽn hoàn toàn.

Cận vệ siết cương, vung roi vừa xua dân vừa quát: “Tránh ra, mau tránh ra!”

Xe ngựa bên cạnh đâm sầm vào nhau, những tiếng kêu la kinh hoảng thốt lên. Quá nhiều người, hệt như một nồi cháo khê, xe không thể tiến thêm một bước nào nữa.

Rèm xe đong đưa, Lý Kiếm Đình nhìn thấy cung điện sừng sững chọc đỉnh mây, nghe thấy tiếng chuông đồng vang vọng.

“Thành phá rồi,” Hàn Cận đi chân trần lao băng băng trên đường, hắn nhảy cẫng lên bắt lấy tờ hịch văn, điên khùng cười sằng sặc, “thành phá rồi!”

“Tiết Tu Trác đầu hàng,” có người ngửa mặt khóc thảm thiết, “Đại Chu mất rồi!”

Ngực Lý Kiếm Đình đau như thắt, nàng run rẩy vén rèm lên thở hổn hển, bỗng dưng gục người về trước nôn òng ọc. Cuồng phong thổi xõa xượi tóc tai nàng, mưa phùn che mặt, tấm lưng khom của nàng láng máng gồ xương.

Chặng đường cuối cùng mà Tiết Tu Trác nói, là chịu nhục thay nàng.

Người Lý Kiếm Đình run bần bật, lạnh lẽo thấu xương tủy, tiếng cười khản đặc. Nàng phối hợp với Tiết Tu Trác, nhưng lại chẳng hề có tình nghĩa thầy trò, Tiết Tu Trác không cần, Lý Kiếm Đình cũng không cần, cho đến giờ phút này, Tiết Tu Trác cũng là đang làm tròn cái chữ “thần”.

Giang Thanh Sơn chưa về, Lý Kiếm Đình có trốn đến Quyết Tây cũng chỉ là kéo dài hơi tàn. Đại Chu đã mất rồi, Thẩm Trạch Xuyên không chỉ sở hữu cường binh, còn sở hữu lòng dân. Tâm huyết tám thành của bọn họ chắp tay dâng lên cho kẻ khác, bao nhiêu chuyện chưa hoàn thành đều sẽ trở thành huy chương của Thẩm Trạch Xuyên sau đêm nay.

“Cả đời còn lại sống chui sống nhủi được chăng hay chớ,” Lý Kiếm Đình ngước mắt nhìn cơn mưa, “… vô vị xiết bao.”

Nửa đời Lý Kiếm Đình buộc vào chữ “ẩn”, cái mệnh của nàng là mệnh không thấy được ánh sáng. Nhưng nàng cố kiết vùng vẫy đấu tranh, biết thắng biết thua, nàng thua rồi, nàng nhận.

“Hoàng——” cận vệ không giữ yên được dây cương, thấy Lý Kiếm Đình nhảy xuống.

Lý Kiếm Đình lâm mưa, nâng tay buộc mái tóc xõa xượi vào. Mấy vạn người bỏ chạy về hướng Tây, duy chỉ có nàng đi về hướng Đông, trở thành bóng hình đơn độc lội ngược dòng người.

Hàn Cận siết tờ hịch văn, khoa tay múa chân vui vẻ hát nghêu ngao giữa cơn sóng triều. Hắn khoái chí nhảy về phía trước, đuổi kịp Lý Kiếm Đình, toét miệng cười: “Ta tìm anh ta!”

Minh Lý đường khởi lửa.

Lý Kiếm Đình cúi xuống nhặt chiếc trống rách rơi trên đường. Nàng gõ thử, âm thanh trầm đục vang lên.

“Đi vào cung à?”

Hàn Cận vỗ tay, nói: “Đi đi đi!”

Loạn quân liều mạng chém giết, Lý Kiếm Đình chẳng nhìn ai nữa, nàng gõ chiếc trống rách, cười sang sảng bất cần với tên điên, bước về vương cung cất cao giọng.

“Ta phận bề tôi lưu đày, lại vì thời loạn mà nay kiêu hùng. Chiếu văn chiêu dụng thánh hiền, muôn trang hào kiệt nắm liền trong tay.”

Trời bao la vắng ánh rạng, Khổng Tưu và chúng triều thần lệ đẫm tường thành.

“Kèn vang biên ải tiêu điều, ngựa tung vó sắt vượt chiều sông băng. Ngựa kia lão tướng nuôi chăn, giáp khôi tuyết phủ mưa dầm nặng thêm.”

Bia đá Ly Bắc sừng sững nghìn xưa, chiến đao của Tiêu Phương Húc phủ tuyết. Thiết kỵ tung vó giữa cỏ khô, Tiêu Ký Minh xuống ngựa, duỗi tay lau tuyết đọng trên đao.

“Sơn tuyết sương tỏ sao đêm, giương nanh lang lệ vong tàn sài ưng.”

Sông Trà Thạch sóng cuộn nao nao, hoa Xích Đề tan rã dần dần khuất dặm trường giang.

“Tra đao tay phủi bụi trần, tơ hồng tắm đoạn duyên phàm nhàn mây. Bệnh tiên cầm rượu rong chơi, tán tùng nguyệt rọi cạn vơi tiếng cầm.”

Diêu Ôn Ngọc cúi mình ho khan, khăn lại lần nữa nhuộm máu đỏ. Y trông ra ngoài lều, tầm mắt bị sương dày ngăn trở. Kiều Thiên Nhai đã tra kiếm vào vỏ, lửa rực mưa sa nhìn về phía Phong Tuyền.

“Minh đường khai yến tưng bừng, nâng ly gõ đũa chẳng ngừng chúc say.”

Lý Kiếm Đình gõ chiếc trống rách, thả bước giữa tường son.

“Bên môi cạn sạch rượu này, nơi cao điện thoả lòng này hân hoan.”

Lửa bốc ngụt trời trong Minh Lý đường chói lòa chung quanh, đi về phía trước là biển lửa rực rỡ. Hàn Cận vẫy tay chạy thoăn thoắt, Lý Kiếm Đình ngoảnh lại, ngắm nhìn Khuất đô một lần nữa. Ngón tay nàng gõ khẽ lên mặt trống, nhưng trống chẳng còn vang. Nàng ngẩn ngơ giữa triền miên lửa dữ, khàn giọng cất tiếng ca: “… Tuý luý trong khúc cuồng ca… Công danh chẳng hỏi cần chi đoái hoài…”

Cột son Minh Lý đường sụp đổ, sóng lửa tung tóe. Sao lửa bắn lên váy Lý Kiếm Đình, cháy dọc viền hoa văn. Nàng xoay người, bị ngọn lửa nuốt chửng.

===

• Rose: Cảm ơn bản dịch thơ của chị Ngư và chị Hiên.

(*) Chỉ một người sắp hết hy vọng sống, giống như con cá dưới đáy nồi.

Một trong những cảnh xuất sắc nhất với mình trong bất kỳ truyện nào.