Thương Tiến Tửu

Chương 282: Cao điện



Mãnh lao đầu vào giữa bầy chim cắt, bị cả đám tấn công hội đồng, nó cất tiếng thét sắc ngọt. Sóng lửa cuộn trào theo từng căn lều sập liếm đến cờ xí, trong thoáng chốc cờ hồng ưng rực cháy.

Đao Lang Lệ chém xuống cự lại loan đao, phát ra những âm thanh ma sát chói tai lúc va chạm. Lưỡi đao sượt qua, tia lửa văng tóe.

Tay A Mộc Nhĩ hơi trầm xuống, nói: “Lực cánh tay của ngươi mạnh hơn cha ngươi.”

Tiêu Trì Dã lợi dụng độ cao kéo đao Lang Lệ, lôi loan đao của A Mộc Nhĩ dằn xuống dưới. A Mộc Nhĩ bị dập liền mấy cái liên tục, mới chỉ vài lần mà chỗ hổ khẩu đã đau tê tái như bị xé. Lão lùi nửa bước trước thế tấn công như vũ bão của Tiêu Trì Dã, tuổi trẻ của Tiêu Trì Dã chính là lợi thế áp đảo nhất.

A Mộc Nhĩ già rồi, lúc Tiêu Phương Húc bệnh ẩn thì lão cũng đã lui về đại mạc. Bao nhiêu năm sau lại lần nữa lên chiến trường, tuy vẻ bề ngoài chẳng mấy sa sút già cỗi, song cơ thể cũng không thể nào so bì được với Tiêu Trì Dã đang ở cái tuổi trai tráng cường thịnh nữa.

“Ngươi đến đây,” A Mộc Nhĩ chống loan đao, “là để trả con trai ta lại cho ta sao.”

Thiết kỵ tập kích bỗng nhiên tản đi tứ phía, bên trong chiếc lều vàng kéo mở vậy mà lại có một chiếc nỏ máy. Chiến sĩ bộ Hãn Xà nhẫn nhịn chờ bao lâu nổi gân xanh rần rật, xoay chiều theo âm thanh “cạch cạch” của cơ quan, trọng tiễn ngay tức thì phi vút ra, bắn thẳng về phía thiết kỵ.

Bên trong mấy túp lều sập không có động tĩnh, Cốt Tân lập tức quay lại phản ứng cực nhanh, nói: “Lều trống.”

Chuồng ngựa của bộ Hãn Xà đã sớm bị Tiêu Trì Dã tập kích đánh hạ, nhưng bất thình lình, chiến sĩ mai phục nhảy ra từ giữa cồn cát đêm, trong phút chốc, tiếng huýt sáo nổi lên khắp tứ bề.

Tiếng vó ngựa.

Cốt Tân nằm sấp áp tai xuống nghe, nhanh nhẹn báo cáo: “Bọn chúng vẫn còn ngựa.”

Bộ Hãn Xà cư ngụ ở một nơi đất đai rộng thênh thang, quanh đường biên không hề bố trí bất cứ hệ thống phòng thủ nào, thậm chí còn không bằng bộ Mông Lạc ở cửa Mạc Tam Xuyên. Nhưng Cáp Sâm đã chết rồi, dưới tình hình bị kẻ thù hùng mạnh áp biên mà vẫn không bị mười một bộ còn lại tập kích, đó là bởi không có bộ tộc nào cả gan. Thời Hàm Đức, A Mộc Nhĩ đã quét sạch kho quân bị của Trung Bác. Nguồn quân nhu của Cáp Sâm là do cha tài trợ, được coi là nhà cải cách xuất sắc nhất đại mạc, sự táo bạo của A Mộc Nhĩ qua ngần ấy năm đã bỏ xa người phàm. Bộ Hãn Xà ẩn cư ở tít sâu trong đại mạc, bọn chúng có răng độc y như rắn.

Thiết kỵ Ly Bắc đã tản ra, Thần Dương ghìm cương chuẩn bị hạ lệnh, ngờ đâu một con ngựa lùn bất chợt xô tới từ bên cạnh, xung lực như chiến xa đó không cho Thần Dương thời cơ kịp trở tay, húc thẳng Thần Dương ngã ngựa.

Gã thằn lằn để trần nửa người dữ tợn lừ mắt, dùng tiếng Biên Sa đáp: “Nợ máu trả máu.”

Vừa rơi xuống, Thần Dương bèn lăn mấy vòng, chùy sắt của gã thằn lằn nện xuống bên cạnh mũ hắn, tuy không trúng, nhưng rung chấn lúc sượt qua vẫn khiến Thần Dương phải choáng váng.

Đằng sau Tiêu Trì Dã có một tên thằn lằn mon men tới vây đánh, thanh đao đang giơ cao của hắn thình lình chuyển hướng, cắt xoẹt qua nách kẻ địch, đâm lủng lồng ngực tên thằn lằn. Máu phọt ra như nước bắn lên tay vai Tiêu Trì Dã, chảy tong tong men bộ giáp xuống yên ngựa.

Lưỡi loan đao bên cạnh vung xuống, Tiêu Trì Dã nghiêng đầu né, bím tóc con sượt qua lưỡi đao của đối phương. Hắn không thể rút đao Lang Lệ ngay lập tức, bèn gập cùi chỏ tay trái thụi mạnh vào mặt đối phương. Tên thằn lằn không ngờ lực của Tiêu Trì Dã lại khủng khiếp đến vậy, cả bản mặt tưởng chừng như sắp nứt ra tới nơi, sống mũi gãy tức thì.

Lưỡi đao ngay trước mặt Tiêu Trì Dã đã bổ tới suýt soát, đao Lang Lệ kề sát áo giáp, tuốt ra kịp thời, “keng” một tiếng bật lại loan đao.

Lãng Đào Tuyết Khâm đột nhiên bứt tốc về phía trước, đao Lang Lệ gồng sức đẩy lực của đối phương lên, xông tiến hất ngã cơ thể đối phương. Tiêu Trì Dã không có thì giờ để xả hơi, bởi vì ngay giây phút Lãng Đào Tuyết Khâm cất vó, chiếc nỏ máy bên trong lều vàng đã chuyển động theo hắn, khoảnh khắc hắn quật ngã người, trọng tiễn xé gió lao thẳng tới.

Nỏ máy là vũ khí để công thành, trọng lượng cùng lực sát thương của nó có thể lấy một địch mười, đã từng giành về vô số chiến thắng cho Đại Chu trong những trận chiến công phòng ngày xưa. Lúc thủ Đoan châu, Thẩm Trạch Xuyên cũng lựa chọn nó làm khí giới phòng thủ, đủ để thấy sự lợi hại của nó, chỉ riêng lên dây thôi cũng đã cần mấy người hợp sức, lực bắn của trọng tiễn bọc sắt tuyệt nhiên không phải thứ một người cự nổi, kể cả có là Tiêu Trì Dã, đụng độ phải nó ở khoảng cách nghìn dặm cũng còn không thể một mình chịu thấu, nói gì là ở khoảng cách gần như thế.

Cốt Tân gần như chống đất bật dậy chạy ngay tắp, hắn chạy bằng tốc độ nhanh nhất cả đời này của mình, vừa chạy vừa gào khản giọng: “Nhị gia.”

Tiêu Phương Húc không còn, chiến trường là nơi mà luân thường đạo lý chẳng được đếm xỉa gì đến nhất, đối với Ly Bắc, dù đêm nay có chết mất một nửa, cũng không thể mất Tiêu Trì Dã.

Thần Dương cách gần, lúc bật dậy lại gặp phải chùy sắt lần nữa, lần này hắn giương đao đón đỡ, chẳng biết lấy đâu ra sức mà gồng được chùy sắt của gã thằn lằn lên. Hai tay hai chân Thần Dương đều run bần bật, họng hắn bật ra một tiếng gầm trầm khản, nghiến răng nói: “Chặn tên.”

Mũi tên khổng lồ bay theo gió đã đến rất gần Tiêu Trì Dã, hắn buông dây cương, Lãng Đào Tuyết Khâm hí lên khuỵu gối trước. Tiêu Trì Dã tức thì lăn khỏi ngựa, lực đạo khiếp đảm của mũi trọng tiễn bay “vút” tới, đâm thẳng vào toán người.

Đám chiến sĩ bộ Hãn Xà chạy điên cuồng nhảy phốc lên lưng ngựa, lăm le loan đao ùa tới từ khắp bốn phương tám hướng.

Tiêu Trì Dã thở phì phò như kéo bễ, mồ hôi ướt sũng tóc mai.

“Ba Nhã Nhĩ của bộ Mông Lạc là tên tạp chủng tráo trở nhất đại mạc này,” A Mộc Nhĩ quẹt máu trên đao, ngón cái chậm rãi vuốt bộ râu lởm chởm, “ngươi lại đi tin chúng, đây là sai lầm mà Tiêu Phương Húc sẽ không mắc phải.”

Tiêu Trì Dã lắc đầu đứng dậy, giáp tay phải bị đập lõm lúc tránh mũi tên đột xuất vừa nãy, nhưng nó chưa rách. Tiêu Trì Dã cắm đao Lang Lệ bên chân, giơ tay tháo chiếc giáp tay ra, buộc vào bên hông.

Ánh trăng bị ánh lửa khuấy nhiễu, A Mộc Nhĩ thấy cái bóng của Tiêu Trì Dã kéo dài đến tận trước người mình, đằng sau lưng là hoang mạc tĩnh mịch vô biên.

“Cấm gọi tên cha ta.” Cơn phẫn nộ hòa lẫn nỗi không cam ẩn sâu trong Tiêu Trì Dã bị lời ấy châm bùng, lòng căm thù bột phát trong lồng ngực hắn, vết thương trên lưng đang hừng hực rực cháy.

Tiêu Phương Húc sẽ không mắc phải sai lầm ấy.

Tiêu Phương Húc sẽ không mắc phải rất nhiều sai lầm.

Ấy thế nhưng, Cáp Sâm lại bỏ Tiêu Phương Húc lại giữa trận bão tuyết, mỗi lần nghe A Mộc Nhĩ nói một câu, Tiêu Trì Dã lại nhớ về thân hình vùi trong tuyết của Tiêu Phương Húc.

“Tiêu Phương Húc, Tiêu Phương Húc——” hốc mắt Tiêu Trì Dã hoe đỏ, giọng khản đặc, “các ngươi mang đầu cha ta đi, giày xéo tôn nghiêm của lang vương.”

Tiêu Trì Dã rút đao Lang Lệ.

“Trả lại cho ta,” mặt hắn dữ dằn, guồng chân chém dồn dập tới, gầm lên với A Mộc Nhĩ, “trả lại cho ta.”

Mãnh lao vù xuống, dường như không chịu nổi màn đánh hội đồng nữa. Tiếng quát mãnh liệt của Tiêu Trì Dã chấn động màn đêm, lúc sắp sửa chạm đất, Mãnh chợt vỗ cánh, ngay lập tức liệng vút lên. Bầy chim cắt bám riết sau lưng nó hẵng còn đang sà thấp, Cốt Tân quay phắt lại chụm ngón tay, huýt vang về phía bầu trời. Phút chốc, vô vàn cánh ưng đồng loạt vỗ cánh, vọt lên không trung xông vào bầy chim cắt.

Ngay từ đầu, không chiến đã là thiên hạ của ưng Ly Bắc.

Mãnh thu cánh đâm bổ vào giữa lũ chim cắt đang đấu đá loạn xạ, nó thù dai, nhắm thẳng con chim cắt truy mình dữ nhất, lượn một vòng xé tan xác đối phương ra rồi mới chịu buông tha.

Lúc thiết kỵ và kỵ binh đang giao chiến giữa đống lều đổ, Ba Âm tháo chạy, quỳ phịch xuống trước lều vàng gọi lão trí giả: “Thầy, con đưa thầy đi.”

Lão trí giả vẫn đang duy trì tư thế cúi đầu chắp tay, cơ thể già cỗi của ông tựa một khúc cây quắt queo, mái đầu bạc phơ tĩnh tại rủ bên trán.

Lòng Ba Âm bỗng lạnh toát, y đưa tay xuống mũi lão trí giả, mặt tức thì trắng bệch. Y không kìm được nghẹn nấc, thoáng chốc òa khóc thống thiết: “Thầy!”

Giết chóc hòa trận tắm máu tô điểm màn đêm, lều của bộ Hãn Xà sập hỏng nguyên một nửa, quân mai phục mà A Mộc Nhĩ bố trí ở vành ngoài không chiếm được lợi thế trước thiết kỵ Ly Bắc, chùy sắt của bọ cạp khó phát huy được triệt để công lực trước những thanh trường đao mới.

Tốc độ trưởng thành của Tiêu Trì Dã quá nhanh, đây là một sự thật mà ngay cả A Mộc Nhĩ cũng không thể không thừa nhận. Bộ Mông Lạc một thân một mình thủ Mạc Tam Xuyên đích xác là lũ tạp chủng trơ tráo, bọn chúng không cho Tiêu Trì Dã biết A Mộc Nhĩ vẫn còn ngựa và quân nhu, cũng không hề đến tiếp viện như đúng hẹn, song tương tự, Ba Nhã Nhĩ càng không có ý định đến đánh giặc hộ A Mộc Nhĩ, lão là ngư ông cầm dao chờ giây phút ngã ngũ, vừa sợ A Mộc Nhĩ để lại hậu chiêu, lại vừa muốn đi theo kẻ chiến thắng tuyệt đối trong trong trận quyết chiến này.

Sao điểm diềm trời, một con ngựa bỗng xông ra ở cuối miền đại mạc, tà váy Đóa Nhi Lan tung bay phấp phới giữa bể trăng rơi, nàng dẫn theo tốp chiến sĩ của bộ Hữu Hùng vừa nãy chạy tới.

Ba Âm chật vật lau nước mắt, thốt lên: “Đóa Nhi Lan, đồ khờ dại!”

Đóa Nhi Lan ghìm cương, mái tóc đen bay phấp phới, đôi mắt xanh lá xinh đẹp của nàng hắt bóng lửa, nói: “Ta đã cưới Cáp Sâm, ta thuộc về bộ tộc của Cáp Sâm, Cáp Sâm cũng thuộc về bộ tộc của ta. Cha! Người nói đúng, cường tộc có Nga Tô Hòa Nhật, Cáp Sâm chính là Nga Tô Hòa Nhật của con.”

Nàng rút con dao găm của mình ra.

“Chúng ta chỉ có anh hùng tử trận, không có kẻ hèn hạ bỏ chạy rút lui! Ba Nhã Nhĩ, ngươi nghe đây,” Đóa Nhi Lan quay mặt về đại mạc, cất cao giọng, “ngươi khuất phục trước kẻ mạnh, Đóa Nhi Lan không trách ngươi! Nhưng đại mạc có kẻ mạnh, mấy chục năm trước bộ Mông Lạc cũng đã từng có Nga Tô Hòa Nhật, ngươi quỳ trước thiết kỵ của Tiêu Trì Dã, là giết chết tôn nghiêm của bộ Mông Lạc!”

Trận giết chóc dưới đêm trăng hòa với tiếng quát ác liệt của người con gái, khiến Ba Nhã Nhĩ án binh bất động phải hổ hẹn, nhục nhã đến không chịu nổi.

“Ta nghe nói con gái ngươi Ô Nhã dám dùng dao hành thích Tiêu Trì Dã,” mặt Đóa Nhi Lan nghiêm trang, “ta bội phục nàng, Cáp Sâm cũng bội phục nàng! Mai kia con trai ta chào đời, ta muốn nó nhận Ô Nhã làm dì, đây là xương sống của người đại mạc!” nói rồi, nàng còn vô cùng thô bạo nhổ toẹt một bãi xuống bên cạnh, “nhưng ta sẽ bảo con trai ta ghi nhớ bộ Mông Lạc là lũ người hèn nhát, thủ lĩnh Ba Nhã Nhĩ là một kẻ hèn nhát!”

Lồng ngực Đóa Nhi Lan phập phồng, nàng rút roi ngựa, dẫn chiến sĩ bộ Hữu Hùng thẳng tiến xông lên. Quân số của thiết kỵ Ly Bắc thật đáng sợ, nhưng trong ánh mắt Đóa Nhi Lan chẳng mảy may có chút sợ sệt nào, nàng là viên minh châu chói sáng nhất đại mạc, dẫu chẳng có cơ thể cường tráng của người chiến sĩ, nàng cũng vẫn sẵn sàng xông vào bức tường sắt bất khả chiến bại ấy.

Trong giây phút cuối đời, Cáp Sâm không hề quỳ trước Tiêu Trì Dã, Đóa Nhi Lan hiểu hắn. Dù cho bọn họ có chết, cũng phải đứng mà chết.

“Con ngốc,” A Mộc Nhĩ phá lên cười sang sảng, sau đó nói vô cùng trang nghiêm, “con nói sai rồi, Nga Tô Hòa Nhật của bộ Hãn Xà không phải Cáp Sâm, mà là Đóa Nhi Lan!”

Sĩ khí đang sa sút của bộ Hãn Xà lại tăng vọt, Ba Nhã Nhĩ hãy còn lần chần, Ô Nhã bên cạnh đã chạy ra chỉ về đằng trước, nói với các chiến sĩ bộ Mông Lạc: “Cửa của Mạc Tam Xuyên do chúng ta canh giữ, giết Tiêu Trì Dã, thiết kỵ Ly Bắc không đánh cũng khắc tự thua! Nếu các ngươi quỳ xuống trước hắn, hai chục năm nữa cũng chẳng thể đứng lên nổi!”

Tiêu Trì Dã và A Mộc Nhĩ đạp rơi bó đuốc lúc giao chiến, giáp sắt be bét máu lẫn cát vàng, chiến sĩ bộ Hữu Hùng vọt vào trong biển lửa tuốt đao hăng hái chiến đấu, bởi vì Tiêu Trì Dã đã giết thủ lĩnh Đạt Lan Đài của chúng ở quận Biên. Giây phút bộ Mông Lạc cũng rút đao, Tiêu Trì Dã đã thực sự rơi vào vòng trùng vây.

***

Thẩm Trạch Xuyên dựa bàn chợp mắt giật mình tỉnh giấc, y dịch cánh tay bị đè tê xuống. Đèn trong sảnh đường đã tắt, phòng bên vẫn còn tiếng các tiên sinh đang bàn bạc, nhưng nơi đây lại yên tĩnh đến lạ thường.

Thẩm Trạch Xuyên vịn khung cửa, gió rét bên ngoài thốc lên lưng y lạnh căm căm. Phí Thịnh nghe thấy động tĩnh, ngoái lại nhìn, không khỏi hốt hoảng: “Chủ tử, cảm mất bây giờ!”

“Đại mạc,” viên ngọc bích bên tai phải Thẩm Trạch Xuyên khẽ lắc lư, y che miệng kìm nén tiếng ho khan, hỏi, “chưa có tin sao?”

***

Cốt Tân lên ngựa, Thần Dương dẫn quân tụ tập. Lấy Tiêu Trì Dã làm trung tâm, bọn họ không ngừng thu gọn. Khôi giáp của thiết kỵ Ly Bắc chịu thiệt hại nghiêm trọng, chỉ có Tiêu Trì Dã là không đội mũ.

“Ngươi muốn tập kích nên không dẫn theo đại quân.” A Mộc Nhĩ thu loan đao bị Tiêu Trì Dã chém rạn về bên hông, “Tuổi trẻ lúc nào cũng dễ bị kích động.”

Tiếng cơ quan “cót két” dày đặc khắp tứ phương, vì đêm nay, A Mộc Nhĩ cũng đã dốc toàn lực.

Vầng trăng bị mây mù nuốt chửng, giữa những đồi cát ngút ngàn đều là chiến sĩ của đại mạc. Những chiến sĩ bộ Hữu Hùng mà Đóa Nhi Lan hiệu triệu là tất cả lực lượng còn thừa của bộ Hữu Hùng, nhờ có Đóa Nhi Lan bảo hộ, bọn chúng đã được tu dưỡng một thời gian ở bộ Hãn Xà, nay vết thương trí mạng khi bị Tiêu Trì Dã đánh thua tan tác mấy tháng trước đã hồi phục.

“Ngươi là một thiên tài,” A Mộc Nhĩ tán thưởng, “thiên tài của Ly Bắc.”

Nỏ máy lên dây thẳng tắp, hàng loạt mũi trọng tiễn đồng loạt nhắm vào Tiêu Trì Dã.

Viên đá giữa trán A Mộc Nhĩ lỏng ra, lão tháo xuống, nỗi cô độc thấp thoáng. Lão trông về núi Hồng Nhạn ở phương xa, nói: “Nhưng ngươi giết con trai ta.”

Đối với người Đại Chu, sông Trà Thạch chỉ là dải ngọc điểm xuyết phong cảnh nước non, nhưng đối với người đại mạc, nó là dòng sông mẹ cách xa muôn nghìn trùng. Từng có một thời, bọn họ và Đại Chu cùng hưởng núi Hồng Nhạn, thiết kỵ Ly Bắc quật khởi buộc bọn họ phải liên tục thoái lui, trở về đại mạc chỉ có thể chém giết lẫn nhau vì miếng ăn.

Cả đời A Mộc Nhĩ, đều khao khát muốn đưa mười hai bộ đến bờ Tây sông Trà Thạch.

Cướp đoạt, cướp đoạt.

Người Ly Bắc gối đầu lên non nước, người đại mạc ngủ vùi trong cát vàng. Bon họ quen nhau bằng đao kiếm, liên tiếp ba đời anh hùng hào kiệt đụng mặt nhau ở bờ Trà Thạch. Xuân tới thu qua, chẳng một ai may mắn tránh thoát.

“Dẫu sao chiến tranh cũng phải kết thúc,” A Mộc Nhĩ móc dải đá vào chuôi đao, “ta sẽ trả lại đầu của ngươi cho anh ngươi.”

Mãnh liệng cánh chao xuống, ưng Ly Bắc rất yên tĩnh. Tiêu Trì Dã nâng tay trái đỡ Mãnh, nói: “E là ngươi không có cơ hội đó đâu.”

Đất hòa cát tung bay mù mịt, trong tiếng vi vu, đội ngũ chạy trước của bộ Mông Lạc nhìn thấy những thanh đao lưỡi ngắn cán dài.

Ba Nhã Nhĩ hối hận chẳng kịp nữa, giậm chân bành bạch kêu: “Lục Quảng Bạch, vẫn còn Lục Quảng Bạch!”

Lục Quảng Bạch từng thâm nhập đại mạc quen đường quen nẻo ở sa mạc chẳng kém gì bộ Hồ Lộc, Tiêu Trì Dã bỏ lại đại quân không phải để tập kích, mà là để dụ rắn rời hang.

A Mộc Nhĩ sẽ không chịu chủ động nghênh chiến, chỉ có Tiêu Trì Dã nóng vội đánh úp mới có thể khiến lão thấy được bình minh. Nếu Đóa Nhi Lan dẫn bộ Hữu Hùng đi, sau đêm nay, Tiêu Trì Dã sẽ phải tiếp tục tiến sâu thêm nữa, nhưng Đóa Nhi Lan lại quay lại, nàng đã hoàn thành bố trận một lưới hốt gọn của Tiêu Trì Dã.

“A Mộc Nhĩ,” Tiêu Trì Dã lại lần nữa siết chuôi đao, “dẫu sao chiến tranh cũng phải kết thúc.”

Cát vàng cuồn cuộn, trước khi chạy đến trước chiến sĩ của bộ Hữu Hùng, Lục Quảng Bạch chợt lui quân, thiết kỵ Ly Bắc xông lên. Hắn nhập quân với thiết kỵ Ly Bắc, lấp vào chỗ trống của thằn lằn, trường đao vung ngang tàng đỡ chùy sắt của thằn lằn.

Hai luồng lực đâm sầm vào nhau, ủng lính của Lục Quảng Bạch tức thì trượt về sau. Một tay hắn chống thân mình, vò chặt nắm cát, cười nói: “Khỏe lắm.”

Thằn lằn dang hai tay, định bụng ngăn lại quân phòng vệ quận Biên.

Thanh trường đao của Lục Quảng Bạch bỗng quét qua đỉnh đầu, lúc chuyển động đánh “keng” lên chùy sắt của thằn lằn. Thằn lằn mới chỉ đánh nhau với thiết kỵ Ly Bắc thôi, chưa từng gặp thứ binh khí nào dị hợm như vậy, phần cán là phần dài của loại trường đao này, gã vung chùy mà không chạm tới được người Lục Quảng Bạch, đỡ mà không bì được tốc độ của Lục Quảng Bạch, chỉ có thể liên tục lui bước trước thế tấn công dồn dập tới tấp.

Thiết kỵ đã phá qua phòng tuyến rìa ngoài, tụ họp đến bên Tiêu Trì Dã. Tiêu Trì Dã không lên ngựa nữa, mà xông vào toán chiến sĩ Biên Sa ở bên trong để đánh giáp lá cà. Thiết kỵ Ly Bắc lần này hệt một cơn thủy triều đen sì, lấy số lượng tuyệt đối áp đảo để càn quét tới.

A Mộc Nhĩ giết vài tên, lăn lộn trong bộ áo giáp, lại lần nữa mặt đối mặt với Tiêu Trì Dã. Tiêu Trì Dã bổ xuống cắt ra ngọn gió dữ, chém toạc vạt áo trước của A Mộc Nhĩ. Đao Lang Lệ găm vào vết nứt trên loan đao, Tiêu Trì Dã mạnh mẽ dồn hai bước, ép A Mộc Nhĩ lui về sau.

A Mộc Nhĩ gồng sức vung dậy hất đao Lang Lệ. Song đao Lang Lệ nhanh chóng mà mãnh liệt giáng trả, lặn lội đường trường chẳng thể tiêu hao thể lực của Tiêu Trì Dã, hắn tập trung một cách lạ thường trong thời khắc này, tập trung đến nỗi chẳng mảy may đếm xỉa những thương tích trên người mình, cặp mắt ấy tĩnh lặng đến đáng sợ.

Loan đao bị hất văng ra, nhưng nó còn chưa rời tay, A Mộc Nhĩ đã chộp loan đao về, xoay người đá vào eo Tiêu Trì Dã, vậy mà Tiêu Trì Dã không hề lui về lúc đó. Hắn dồn lực, dùng chuôi đao thụi một cú hung ác lên má A Mộc Nhĩ.

A Mộc Nhĩ không ngã, miệng lão sặc sụa mùi máu, răng bị Tiêu Trì Dã nện đau tái tê.

Lối đánh của Tiêu Trì Dã pha trộn từ trăm phái, song trước nay chưa bao giờ ly rời phái gốc, hắn là kẻ cậy mạnh mà ngang tàng như Tiêu Phương Húc, nếu đánh thật thì tám chín trên mười lần phải chết người như chơi.

Đây chính là lang vương trẻ tuổi.

Mắt trái của A Mộc Nhĩ đã hơi nhòe, lão trông thấy mặt trăng đang rực cháy, tiếng than khóc não nề của bộ Hãn Xà xuyên thấu màn đêm bất tận bao la. Muôn ngàn vì tinh tú từng thuộc về lão đã ngã trần tất thảy, bậc hào hùng bị dồn đến bước đường cùng phải thừa nhận mình đã sớm già rồi.

Cáp Sâm.

Hùng ưng kiêu ngạo của A Mộc Nhĩ.

Dường như A Mộc Nhĩ trông thấy bóng hình con trai ngày giã biệt, cũng là một đêm trăng thế này, Cáp Sâm vẫy tay, mái tóc đỏ ngượng ngùng bị đêm thâu che phủ.

Mỗi một lần Tiêu Trì Dã vung đao, loan đao của A Mộc Nhĩ sẽ phát ra âm thanh đau đớn. Nhuệ khí của Tiêu Trì Dã không còn che giấu, từng lần từng lần bổ xuống đều chém vào chỗ sắc bén nhất của loan đao.

Trận chiến này không còn tương đương lực lượng nữa, mà là một mình thiết kỵ Ly Bắc nghiền ép.

Ngựa của Đóa Nhi Lan bỗng quỵ ngã, nàng rơi xuống đất, nhìn con dao găm tuột khỏi tay rơi xuống dưới vó sắt. Trên má nàng tung tóe máu, vừa lau vừa gào khóc nức nở.

Ba Âm cầm thanh đao ngắn của mình xông vào giữa trận hỗn chiến, hô gọi Đóa Nhi Lan: “Ngựa của ta cho ngươi, Đóa Nhi Lan, chạy đi!”

Đóa Nhi Lan ôm bụng, lắc đầu nguầy nguậy: “Ngươi đi đi!”

Ba Âm thở hổn hển, bỗng nắm lấy tay Đóa Nhi Lan, khẩn thiết nói: “Ưng nhỏ phải sống,” y không nén được tiếng khóc, cổ họng nấc nghẹn, “người con gái khờ dại của hồ Xích Đề, chạy——”

Máu chợt tóe, Ba Âm còn chưa dứt lời đã ngã bịch xuống vũng máu. Đóa Nhi Lan sững sờ trân trối nhìn: “Không…”

Thần Dương đẩy mũ ra, lạnh lùng nhìn Đóa Nhi Lan, buông lời bằng tiếng Biên Sa: “A Xích giết cánh trái của bọn ta ở Đoan châu, là kẻ này bày mưu, một nợ trả một nợ.”

Ba Âm hãy còn đang nắm tay Đóa Nhi Lan, Đóa Nhi Lan còng mình ôm lấy thân thể của chàng thanh niên, giọng run rẩy vụn vỡ, nàng yếu ớt khẽ khàng thốt lên: “Dừng lại…”

A Xích không chỉ giết cánh trái của thiết kỵ Ly Bắc ở vùng lân cận Đoan châu, mà còn mang đi đầu của tất cả thiết kỵ trong đội ngũ. Bọn chúng hạ trại bên bờ Trà Thạch, đá những cái đầu ấy, dùng mũ giáp của thiết kỵ làm bô tiểu, Thần Dương không thể nào quên nổi món nhục này.

Lửa phừng phừng, nhưng trăng lại buốt giá.

Người gào, ngựa hí, ưng thét.

Người ngã xuống mỗi lúc một nhiều, vó sắt xéo lều bạt, đằng sau biển lửa là tro tàn vô tận. Bộ Hãn Xà kiêu hùng ba mươi năm nơi đại mạc hóa bùn cát chỉ trong một đêm, hứng chịu ngọn lửa thịnh nộ đã sục sôi đằng đẵng của Ly Bắc.

Lửa quây tụ trước lều vàng, đoạn dây đá của A Mộc Nhĩ đứt phựt văng tóe ra trước thế đao Lang Lệ, cờ hồng ưng rung trời chuyển đất tượng trưng cho cường tộc cuối cùng đã rơi xuống bể lửa rực trời, thân hình của Tiêu Trì Dã chắn tất thảy.

Tiêu Trì Dã dồn dập mạnh mẽ công kích khiến A Mộc Nhĩ mất mọi đường lui, hắn quát lên giữa ngọn lửa ác liệt: “A Mộc Nhĩ!”

A Mộc Nhĩ khó nhọc đỡ đao, bị Tiêu Trì Dã ép sát sạt, mồ hôi thấm đẫm đôi mắt lão.

Tiêu Trì Dã càng đánh càng hăng, sự chính trực mà điên cuồng của hắn được bồi dưỡng nên trên thảo nguyên, chỉ có đất mẹ Hồng Nhạn mới có thể sinh ra một nam nhi như vậy. Tinh thần chiến đấu tăng vọt của hắn quyện với mồ hôi, ánh mắt sáng loáng tựa ánh đao, bên trong chứa đựng vầng dương rực rỡ.

A Mộc Nhĩ kiệt lực quyết chiến, loan đao đã trì trệ, rốt cuộc khi Tiêu Trì Dã vập tới một lần chót mạnh mẽ, loan đao đã rời tay.

Trăng hóa mong manh, đêm thâu chuyển nhạt, trời sắp hửng sáng.

Viên đá của A Mộc Nhĩ lăn xuống bên chân, cát vàng dưới chân đẫm màu máu. Lão ngẩng lên, trên bầu không chẳng còn mấy cánh chim cắt.

“Thiên thần phù hộ hùng ưng,” A Mộc Nhĩ đột nhiên nâng cao tay phải, cất tiếng gầm cuối cùng hướng về đại mạc, “A Mộc Nhĩ ta thống trị sáu bộ hai mươi năm, từng vào trong lòng Đại Chu, không phụ cờ hồng ưng, sông Trà Thạch mà chúng ta hằng khát vọng——”

Đao Lang Lệ bổ thẳng xuống đầu, A Mộc Nhĩ kiên cường giương cánh tay buộc giáp tay lên đón đỡ.

“——sông Trà Thạch mà chúng ta hằng khát vọng,” giữa lúc đó, A Mộc Nhĩ bật tiếng cười hảo sảng với Tiêu Trì Dã, giọng kiên định, “Tiêu Trì Dã, hai mươi năm sau, hùng ưng đại mạc sẽ lại lần nữa tung cánh vượt núi Hồng Nhạn. Ngươi giết được ta, ngươi giết được chúng ta, nhưng ngươi vĩnh viễn không thể giết được ưng đại mạc! Hai mươi năm, bốn mươi năm,” giáp tay phát ra âm thanh nứt toác dưới lưỡi đao, A Mộc Nhĩ trầm giọng, “cuối cùng sẽ có ngày đại mạc nghênh đón đại quân chân chính!”

Tiêu Trì Dã cũng bột phát gầm lên khi đè xuống: “Hai mươi năm, bốn mươi năm, sói Ly Bắc vĩnh viễn trấn thủ biên cương, đến đi,” cặp mắt hắn đỏ ngầu, giọng uy nghiêm, “lần này, lần tới, ta sẽ chờ các ngươi ở bờ Trà Thạch, mười hai bộ sẽ vĩnh viễn không vượt qua được sông Trà Thạch!”

Giáp tay của A Mộc Nhĩ đứt toạc, ngay sau đó đao bổ xuống như chẻ tre, chính diện kết liễu tiếng gầm của lão.

Đóa Nhi Lan thoáng ngưng nức nở, rồi lập tức bật ra tiếng gào khóc đau xé ruột gan. Nàng bò dậy, chân giẫm phải váy vấp ngã, rồi lại bò dậy, siết con dao găm lao bổ vào Tiêu Trì Dã.

Cơn gió cả cuốn bay cát, lưỡi đao chợt nhắm thẳng vào giữa trán Đóa Nhi Lan.

Tóc Đóa Nhi Lan lả tả khắp toàn thân, nàng dừng lại trước mũi đao, lệ không ngừng tuôn rơi, cả người run rẩy, rốt cuộc nghiến răng căm hận: “Giết ta đi! Tiêu Trì Dã, giết ta đi!”

Máu dính trên đao Lang Lệ rỏ tí tách xuống ấn đường Đóa Nhi Lan, hòa với nước mắt của nàng, làm phai nhòa gương mặt.

Nắng sớm cuối chân trời đâm toạc bóng tối, ánh bình minh nhàn nhạt phủ kín đại mạc hoang vu. Bộ giáp trên người Tiêu Trì Dã hắt lại một tia sáng sắc mỏng, hắn hơi nghếch cằm, mồ hôi chảy xuống. Hắn nói với Đóa Nhi Lan: “Thiết kỵ Ly Bắc, không giết phụ nữ.”

Hàm răng Đóa Nhi Lan run lên, đó là căm thù, nàng đứng đó, đến cả tôn nghiêm chết trận cũng đã bị Tiêu Trì Dã tước mất!

“Cưỡi ngựa của ngươi, cút khỏi vùng đất này, từ nay về sau toàn bộ phía Tây Mạc Tam Xuyên thuộc về Ly Bắc, không có lệnh của ta, mười hai bộ mà dám cả gan vượt qua một bước,” lưỡi đao của Tiêu Trì Dã kéo xuống, nặng nề găm vào trước chân Đóa Nhi Lan, như thể đang vạch ra lạch trời bất khả xâm phạm tại nơi đây, “sương dữ sẽ đồ sát toàn tộc mười hai bộ.”

Cờ chó sói Ly Bắc phất phới giữa trời cao, mặt bên Tiêu Trì Dã nghiêm trang lạnh lùng, đây là lòng nhân từ còn sót lại của lang vương. Chiến đao của hắn đã tiêu diệt hào hùng Biên Sa, thiết kỵ của hắn lặng lẽ vượt biên tựa sương dữ, sau lưng hắn núi Hồng Nhạn bất biến thiên cổ nghìn đời đứng sừng sững.

A Mộc Nhĩ đã từng tàn sát sáu châu, đó không phải hùng mạnh, tàn sát mới là hèn nhát, kẻ hùng mạnh thực sự sẽ dám can trường đối mặt với sự xâm lăng qua tháng năm. Từ nay Ly Bắc không còn độc hành nữa, Tiêu Trì Dã có sự hậu thuẫn mạnh nhất thế gian, hắn chính là lưỡi đao sắc bén không thể đẩy lùi nhất trần đời này.

Đóa Nhi Lan khuỵu quỳ phịch xuống, khóc tê tái.

Tiêu Trì Dã tra đao vào vỏ, chẳng liếc Đóa Nhi Lan lấy một cái. Hắn xoay người lên ngựa, quay mặt nhìn vô số thiết kỵ Ly Bắc.

Chẳng biết ai khẽ khàng nói trước: “Thắng rồi…”

Tiêu Trì Dã đưa lưng về ánh bình minh, trong khoảnh khắc ánh dương vỡ òa ấy, hắn như quay trở về cái ngày giành chiến thắng đầu tiên năm mười bốn tuổi, tuy cả người ê hề tro bụi, nhưng ánh mắt lại ngạo ngược. Hắn rút roi ngựa, phá ra cười sảng khoái giữa cơn gió cả thông thốc: “Đại thắng!”

Lang vương Ly Bắc!

Từng cơn sóng lòng trào dâng trong Lục Quảng Bạch, nhìn Tiêu Trì Dã giục ngựa, sự kiêu ngạo khó có thể diễn tả bằng lời ấy, cực kỳ giống giây phút xuất cảnh năm Hàm Đức thứ tư.

Chiến tướng trung thành với thổ địa, tứ tướng Vĩnh Nghi thoái ẩn, tứ tướng Hàm Đức hao kiệt, thời đại loạn thần tặc tử sắp kết thúc, chúng hãn tướng mới sẽ theo gót chân Tiêu Trì Dã chào đời trên giang sơn.

“Ê,” Lục Quảng Bạch ôm chuôi đao, chạy đuổi theo Tiêu Trì Dã mấy bước gọi: “tụi này không có ngựa đâu!”

Thiết kỵ Ly Bắc rong ruổi ở đại mạc, những tiếng cười giòn giã của cánh nam nhi vang vọng thấu trời xanh. Bọn họ từ mây đen ùn ùn kéo tới, biến thành sấm xuân hồi hương. Mãnh chao liệng trên bầu không vời vợi, xuyên thủng tầng mây trắng.

Nhà đã ở ngay trước mắt.

***

Hai tháng sau, tin thắng trận mới đến được Khuất đô, hôm ấy vào đúng ngày tuyết rơi, Thẩm Trạch Xuyên ngồi trong sảnh đường ấm áp thoắt đứng dậy, chúng tiên sinh ở hai bên cũng đứng dậy theo.

“Thắng rồi!” Dư Tiểu Tái vui phơi phới vỗ đùi đánh đét, “ta biết ngay mà, Nhị gia ra trận, đánh đâu thắng đó, không thành vấn đề!”

Cao Trọng Hùng phấn khởi ra mặt, vội vàng nói: “Ta, ta sẽ viết tin chiến thắng! Trận đánh này sẽ rực rỡ sử xanh!”

Bởi vì thời tiết quá lạnh nên độ này Diêu Ôn Ngọc rất hiếm khi xuất hiện. Thẩm Trạch Xuyên mau chóng triệu Ký Nhiên vào đô, Ký Nhiên hẵng còn đang trên đường. Diêu Ôn Ngọc nén tiếng ho, nghe thấy hai chữ “sử xanh”, bèn quay qua liếc nhau với Khổng Lĩnh đang ngồi bên cạnh một cái.

Khổng Lĩnh khẽ gật đầu, nói: “Nay Khuất đô vô chủ, muốn đón Nhị gia, phải sớm có chuẩn bị.”

Chúng tiên sinh ai nấy đều hồ hởi, chỉ mình Thẩm Trạch Xuyên ghé người qua, đè giọng hỏi nhỏ: “Sách An khỏe không?”

Phí Thịnh đã sớm hay tin, cũng đè giọng thưa: “Chủ tử yên tâm, Nhị gia không việc gì!”

Thẩm Trạch Xuyên yên lòng được chút đỉnh, trong sảnh đường ấm kê một chậu cây do phu nhân của Chu Quế tặng, cây đang tươi mơn mởn, Thẩm Trạch Xuyên nhìn chăm chăm một hồi, lại nảy lên thôi thúc muốn cắt một cành giấu vào trong ngực.

Đến lúc các tiên sinh rời đi đã là giờ Tuất, rèm cuốn rèm buông, song Diêu Ôn Ngọc lại nâng chén trà, thong thả gạt bọt trà, vẻ bệnh tật trên mặt mày hiển hiện lúc trầm ngâm. Nguyên Trác về Khuất đô rồi, không gặp cố nhân, cũng chẳng quay về nhà cũ Diêu thị.

Thẩm Trạch Xuyên xem án vụ, hỏi: “Sáng nay ngươi bảo muốn đi gặp Tiết Tu Trác à?”

Bên ngoài sảnh đường ấm áp rất thanh tĩnh, thanh tĩnh đến độ chỉ nghe được tiếng tuyết rơi. Diêu Ôn Ngọc chăm chú nhìn bọt trà lăn tăn, đáp: “Đều là người lâm chung, nên gặp một lần.”

Thẩm Trạch Xuyên chuyển mắt, dẫu rằng y rất biết tự kiềm chế, cũng không nén được vẻ xúc động bởi lời này.

Diêu Ôn Ngọc không uống trà, y nhìn về ô cửa sổ hắt ánh đèn lồng mông lung, bóng tuyết phất phơ từng hạt từng bông.

“Năm mới rồi,” Diêu Ôn Ngọc khẽ mỉm cười, “phủ quân, năm mới suôn sẻ.”

***

Tiết Tu Trác đang bị giam trong nhà lao của bộ Hình, búi tóc ngắn của hắn được búi nghiêm chỉnh, dù lớp quan bào chẳng còn, cũng vẫn duy trì được sự điềm tĩnh thuở nào.

Lúc xe lăn của Diêu Ôn Ngọc đến, Tiết Tu Trác buông đũa đang ăn dở xuống, cách lớp chấn song, không hề cảm thấy bất ngờ. Hắn mở lời: “Tháng Giêng trời rét, Thẩm Trạch Xuyên đã cho người quét dọn phố xá chưa?”

Diêu Ôn Ngọc lăn xe, vai không vương tuyết, nói: “Cấm quân tự bố trí.”

Tiết Tu Trác chống đầu gối, nhìn thẳng vào Diêu Ôn Ngọc. Bọn họ đều đã từng sống trong cái bóng của đối phương, nửa đời trước, Tiết Tu Trác là lưỡi đao vô danh; nửa đời sau, Diêu Ôn Ngọc là hòn ngọc vỡ.

Tiết Tu Trác nói: “Vào xuân tuyết trên núi tan, vị trí mộ của thầy không đẹp, ngươi xem sửa sang lại chút đi.”

“Ngươi sống ở Khuất đô lâu thế,” Diêu Ôn Ngọc nói, “mà không đi thăm sao?”

Sống lưng thẳng tắp của Tiết Tu Trác hòa vào nền tuyết phần phật sau lưng, hắn thành thật đáp: “Không dám đi.”

Nhà lao yên tĩnh.

Diêu Ôn Ngọc cụp mắt, tựa hồ đang đón nắng. Y đặt quân cờ trắng nắm trong lòng bàn tay lên bàn, trong bóng tối ảm đạm, im lặng đẩy về phía Tiết Tu Trác.

Tiết Tu Trác chú mục vào quân cờ ấy, trong khoảng tĩnh lặng đằng đẵng, dường như nghe thấy tiếng mưa rơi trên núi Bồ Đề.

“Rất nhiều năm về trước,” giọng Tiết Tu Trác bình đạm, “thầy bất chấp thành kiến về con thứ của thế gia mà nhìn đến ta, đề bạt ta nhập sĩ. Ta đọc được sách luận của Tề Huệ Liên, biết thế gian này rộng lớn, có loại người gọi là ‘triều thần’, bọn họ bôn ba khắp mọi miền Đại Chu, trở thành rường cột trọng yếu của Đại Chu. Năm Vĩnh Nghi Tề Huệ Liên bị giam cầm, bao lần thầy quanh quẩn trên chiếc chòi canh có thể nhìn thấy chùa Chiêu Tội, ta hỏi thầy đang nhìn gì thế, thầy bảo đang nhìn ‘thần’ cuối cùng của thế gian này. Lúc đó ta thấy thật kỳ lạ, bởi vì Tề Huệ Liên là thần, thầy cũng thế. Đến thời Hàm Đức, bọn ta chết mất rất nhiều người để thu được bằng chứng buộc tội Hoa Tư Khiêm, người làm quan, người làm lại, tất cả bọn họ đều là trung thần ở các địa phương, đều chết hết rồi.”

Tiết Tu Trác suy nghĩ quá lâu về những chuyện đó, lâu đến mức chai sạn, lòng dạ đã hóa sắt đá, chẳng còn thất thanh ngậm ngùi khóc giữa đêm khuya nữa. Hắn tôn kính Hải Lương Nghi nhường ấy, song hiện thực lại quá tàn khốc.

“Bọn họ không được chôn cất, không có mộ phần, đều chết trong tranh đấu, thế gia phất tay áo một cái là quét sạch sẽ bọn họ.” Ánh mắt Tiết Tu Trác trống rỗng, “Cuộc tiến gián ở trường săn năm Hàm Đức là niềm hy vọng của vô số những con người mà ngươi chưa từng nghe đến tên, bọn ta hạ bệ được Hoa Tư Khiêm, nhưng thầy lại không tiếp tục.”

Bởi thế Thái hậu mới sống, thế gia lại vững vàng như cũ. Lý Kiến Hằng lên ngôi, Tiết Tu Trác cũng từng muốn phò tá hắn, nhưng Lý Kiến Hằng hoàn toàn không thể cáng đáng nổi trọng trách này.

Rốt cuộc Hải Lương Nghi kiên trì vì cái gì cơ chứ?

Tiết Tu Trác không hiểu, hắn đứng trước ngã rẽ, không chịu theo chân Hải Lương Nghi nữa, con đường này hắn không thấy được ánh sáng.

“Cho đến ngày hôm nay,” Tiết Tu Trác ngước mắt, “ta vẫn không đồng ý với con đường của thầy, không ai trong ván cờ này có thể thuyết phục được ta, Nguyên Trác, ngươi cũng không thể.”

Diêu Ôn Ngọc chuyển bánh xe, đi ra ngoài nhà lao.

Tiết Tu Trác nhìn theo bóng lưng Diêu Ôn Ngọc, nói: “Trời sinh ta Tiết Tu Trác, mệnh tước đoạt, danh tùy ý. Ngươi ta ai thắng? Chỉ là ta thua mà thôi. Chủ của ta sinh không gặp thời, thua dưới tay Thẩm Trạch Xuyên, sai là thời cơ, không phải mệnh.”

Xe lăn của Diêu Ôn Ngọc dừng lại, y không quay đầu, chỉ hơi nghiêng mặt, nhấn từng câu từng chữ trong bóng tối: “Thời cũng thế, mệnh cũng thế, vận cũng thế.”

Cửa nhà lao đóng “ruỳnh”, hoàn toàn chia cách hai người ở hai nửa sáng tối.

Diêu Ôn Ngọc chuyển xe lăn dọc lối đi chật hẹp, lúc đến gần cửa bỗng bắt đầu ho. Ngọn đèn ngoài cửa ảm đạm, Diêu Ôn Ngọc vịn tay ghế, dần dần không nhìn rõ được khung cảnh trước mắt trong tiếng thở nặng nhọc.

“Tiên sinh…”

Cai ngục bên cạnh hốt hoảng kêu lên.

Thời cũng thế, mệnh cũng thế, vận cũng thế, không phải thứ mà ta có thể kiểm soát. [1]

Ngón tay Diêu Ôn Ngọc đau buồn bắt lấy một mảnh hư không, hướng về trước mắt, rơi thẳng xuống.

Lúc Diêu Ôn Ngọc tỉnh dậy, trong phòng thắp một ngọn đèn tù mù.

Thẩm Trạch Xuyên trực chờ bên cạnh, nhẹ nhàng nói: “Ký Nhiên và Tùng Nguyệt sắp tới rồi, ngươi trò chuyện với ta, chờ bọn họ một chút.”

Diêu Ôn Ngọc nhìn tấm rèm buông, cũng nhẹ nhàng đáp: “Ta đã bảo Tùng Nguyệt đến núi Bồ Đề, trồng cây bồ đề đợi ta.”

Thẩm Trạch Xuyên rũ mắt, nỗi chua xót dồn ứ cận kề, tưởng chừng chỉ chớp mắt một cái nữa thôi, là nước mắt sẽ tuôn rơi.

“Mùa đông sao dài quá,” Diêu Ôn Ngọc buồn bã nói: “trước khi vào đô, ta cứ nghĩ có thể chờ được đến lúc hoa trên núi Bồ Đề nở.”

“Ngươi chờ một chút nữa thôi,” Thẩm Trạch Xuyên sụp đổ, chớp mắt, giọng y vụn vỡ, “Nguyên Trác.”

Diêu Ôn Ngọc không đáp, lại ho, lần này máu thấm sũng khăn, chẳng thể giấu được nữa. Y lặng thinh chốc lát, nói: “Hoàng sách ở Quyết Tây đã thi hành được nhiều năm, Giang Thanh Sơn là một vị quan tốt, Lan Chu, giữ hắn lại, đó là phụ mẫu của Quyết Tây. Đại soái dám kháng cự lệnh xuất binh vì bình yên của thiên hạ, nàng làm vương, năm quận Khải Đông sẽ hoàn toàn quy thuận. Tuy Phí Thịnh có khuyết điểm nhỏ, nhưng vẫn là anh tài đáng trọng dụng, có bia đá của Doãn Xương, để hắn về Đoan châu, Đoan châu sẽ được bảo vệ. Thành Phong…” Diêu Ôn Ngọc thở càng nặng nề, “Thành Phong vốn muốn công thành lui thân… ta đã để lại thư cho ông ta… Lan Chu, tân hoàng không thể không có mưu thần, ta đi rồi, tài học cùng hiểu biết của Thành Phong… sẽ có thể phù trợ ngươi tọa vững giang sơn…”

Mồ hôi Diêu Ôn Ngọc đầm đìa người, dường như đang phát tác, đến sắc mặt cũng tái nhợt. Y nâng tay, túm tay áo Thẩm Trạch Xuyên.

“Thiên hạ này…” mấy lần Diêu Ôn Ngọc muốn ngồi dậy, hơi thở thoi thóp, hai mắt đỏ hoe, “ngươi phải tọa! Tuân nhi còn, còn nhỏ… vẫn chưa đến lúc…”

Thẩm Trạch Xuyên nắm ngược lại tay Diêu Ôn Ngọc, trong ánh nến, chậm rãi nói: “Ta không phải người làm hoàng đế.”

“Ngươi là kiêu chủ, kiêu chủ của thiên hạ.” Diêu Ôn Ngọc kiên quyết, “Một mai có thể nhường giang sơn, nhưng thời khắc này, duy nhất Thẩm Lan Chu ngươi có thể tọa! Rửa sạch án cũ… trừng phạt Thẩm Vệ…” y thở khò khè, họng đã vụn vỡ, âm thanh thanh trong tựa ngọc đã hóa khê khản, câu từ gấp gáp hẵng còn ho ra máu, “Lan Chu… ngươi là quang minh lỗi lạc…”

Thẩm Trạch Xuyên đã rơi lệ, môi y mấp máy, chẳng thốt đặng dẫu chỉ một chữ.

“Chờ Sách An về, về…” Diêu Ôn Ngọc siết ngón tay, “ngươi sẽ không còn phải khổ nhọc nữa… Nửa năm trước ta đã viết một cuốn sách, toàn bộ nha môn các vùng được thâu tóm trong đó, có chút thiển kiến về trị dân tám… tám thành… Ngươi cầm đi… Từ nay…”

Diêu Ôn Ngọc nương lực đỡ của Thẩm Trạch Xuyên, bỗng nôn ra máu. Vết máu đỏ thẫm thấm ướt tay áo y, y còn chẳng buồn lau máu, khó nhọc mấp máy khóe môi.

“… giang sơn xã tắc, giao cho ngươi.”

Trọng trách mà Hải Lương Nghi dỡ xuống, Diêu Ôn Ngọc đã gánh đặng. Y không tuân theo con đường của người khác, y cất bước trên con đường của chính mình. Bất luận thế gian này muốn đánh giá thế nào về y, y đều là vị trích tiên cưỡi lừa mà tới.

Cả đời Diêu Ôn Ngọc không nhập sĩ, y đã làm được; Diêu Ôn Ngọc phải hoàn thành sư nguyện, y cũng đã làm được. Y trần trụi bước vào thế gian, vỡ rồi cũng chẳng hề chi, ngoại trừ Kiều Thiên Nhai, y chẳng nợ ai hết.

“Nếu có thể được gặp nhau sớm hơn…”

Diêu Ôn Ngọc dõi mắt trông về ô cửa sổ, ở nơi đó treo trái cầu lụa đến giờ chưa hề vứt đi, y mỉm cười rệu rã, dịch bàn tay đeo đoạn dây đỏ.

“… A.”

Kiều Thiên Nhai thúc ngựa phi băng băng xé làn tuyết dày đặc, lưng hắn mang đàn, xô đổ hàng rào, lăn tuột khỏi lưng ngựa trong những tiếng suỵt của cấm quân. Phí Thịnh tới đỡ hắn, hắn đẩy Phí Thịnh ra, bò dậy từ trong tuyết, ánh mắt băng qua hành lang dài, nhìn thấy ngọn đèn ở phía chót đã tắt lịm.

Kiều Thiên Nhai cất bước, lại vấp phải nấc thang khuỵu ngã, hắn gục ở đó, bờ vai bỗng run rẩy, ngửa mặt nhìn tuyết giăng mịt mùng, phá ra cười sằng sặc mà lệ tuôn đẫm mặt.

“… Ông trời chó má! Đùa bỡn ta… Chà đạp ta…” Kiều Thiên Nhai không nén nổi tiếng khóc, “ta đều chịu…”

Tội gì phải làm vậy với y.

Kiều Thiên Nhai nâng tay gỡ chiếc đàn trên lưng xuống.

Phí Thịnh bước tới định can ngăn, cuống cuồng nói: “Kiều——”

Nhưng muộn rồi, Kiều Thiên Nhai bỗng nâng cao chiếc đàn, rồi nện xuống bậc thềm. Cây đàn mà hắn yêu quý cả đời, dây đứt kêu một tiếng “ong”, thế rồi thân đàn gãy lìa, gãy thành đôi nửa vùi trong tuyết.

Gió tuyết che phủ tầm mắt Kiều Thiên Nhai, lọn tóc khoáng đạt của hắn phất phơ giữa bầu không, đàn gãy, tâm cũng chết cùng.

“Thế gian này đã không còn Diêu Nguyên Trác,” Kiều Thiên Nhai chậm rãi khép mắt, như đang chế giễu sự an bài nực cười này, “thì Kiều Tùng Nguyệt cũng đã chết.”

Phí Thịnh đuổi theo Kiều Thiên Nhai, hỏi giữa trời tuyết: “Ngươi định đi đâu?”

Kiều Thiên Nhai không đáp, hắn quay người cởi bỏ thanh bội kiếm trĩu nặng oán ân kia, chuệnh choạng bước ra cổng vào.

Xe ngựa dừng lại, Ký Nhiên chui ra khỏi rèm xe, chạy bước nhỏ đuổi theo Kiều Thiên Nhai. Nó chắp tay, cất giọng nói non nớt: “Nếu lòng ta không mang vạn vật, ngại gì vạn vật ở chung quanh. Thí chủ, con đường phía trước không phong sương, chỉ ngươi là tấm gương soi sáng. Phật của ta búng một ngón tay, chuyện cũ sẽ hóa tro tàn.”

Nếu Kiều Thiên Nhai không nghe thấy, Ký Nhiên đi theo hắn, hai vạt tay áo một lớn một nhỏ phiêu diêu, cùng biến mất vào cõi trắng mịt mùng.

Trời xanh biêng biếc, vạn vật trong trẻo, chẳng vương bụi trần.

***

Thẩm Trạch Xuyên chờ một mình dưới mái hiên phủ tuyết, ngồi từ lúc sắc trời đen nghịt đến khi trời hửng sáng. Y lắng nghe tiếng tuyết sà xuống hiên, dường như thời gian đã ngưng đọng. Cuối cùng y đã trở về Khuất đô, từ nơi đây ngắm bầu trời, chuyện dĩ vãng hiển hiện trước mắt.

“Ngươi biết năm ấy,” Thẩm Trạch Xuyên khép kín áo choàng, chậm rãi cất tiếng, “vì sao ta lại đáp ứng Sách An, đeo khuyên tai không?”

Phí Thịnh đứng ở rất xa phía sau, đáp: “Bởi vì chủ tử và Nhị gia tình cảm rất sâu đậm.”

Thẩm Trạch Xuyên nâng tay ngắt đóa mai chắn trước mình, nói: “… Bởi vì ta biết có người sẽ ra đi, người đã biến mất vào tuyết lớn sẽ vĩnh viễn không trở về, ngoại trừ Sách An.”

Tiêu Trì Dã đeo khuyên tai cho Lan Chu, công khai sự bá đạo, ẩn giấu tình yêu thương. Mỗi một lần hắn nâng mặt Lan Chu lên, ánh mắt đều vĩnh viễn cháy bỏng như thế, đây là yêu không thể bớt, dục không thể giấu.

Thẩm Trạch Xuyên đeo khuyên tai Sách An đưa, cũng tương tự tuyên bố sự độc chiếm, trong đau đớn cùng tàn ác của y còn ẩn chứa cả dịu dàng. Đây là sự mềm mại của y, y chỉ cho một mình Tiêu Sách An.

Phí Thịnh không dám bước quá gần, sau khi cả Nguyên Trác và Tùng Nguyệt đều lần lượt ra đi, sắc mặt Thẩm Trạch Xuyên chẳng mấy khi vui vẻ. Thẩm Trạch Xuyên đã đứng trên đỉnh cao tột cùng của thế gian, dù còn chưa mang quan miện, song cũng đã khác lúc ở Trung Bác. Sự khác biệt ấy không phải vì Thẩm Trạch Xuyên đã thay đổi, cũng chẳng phải vì Phí Thịnh đã thay đổi, mà là nơi chốn đã thay đổi, dường như ở nơi vương cung sừng sững trường tồn suốt mấy trăm năm này, đến cả bậc thang cũng có lực uy hiếp.

Phí Thịnh cố gắng xoa dịu: “Chủ tử, vương phi với thế tử đã lên đường rồi, mấy ngày nữa là sẽ tới đô thôi.”

Thẩm Trạch Xuyên “Ừ” tiếng, Phí Thịnh đứng lặng lẽ.

Chẳng biết bao lâu đã trôi qua, Thẩm Trạch Xuyên vê nát đóa hoa mai, cánh hoa yêu kiều rã nước làm ướt bụng ngón tay y, y cụp mắt cầm lấy khăn. Một tiếng “kẽo kẹt” bỗng vang lên từ trong tuyết, Thẩm Trạch Xuyên còn chưa kịp mở miệng, đỉnh đầu đã bị tấm áo choàng bao phủ.

Thẩm Trạch Xuyên ngây người, thế rồi bị bế lên. Áo choàng vén ra một khoảng trống, gáy y bị đè, sau đó bị hôn vào chính giữa.

Tuyết vụn vỡ đậu xuống chóp mũi Thẩm Trạch Xuyên, nhưng răng môi lại nóng rực.

Tiêu Trì Dã kéo áo choàng ra, cười giòn giã: “Ta từ——”

Thẩm Trạch Xuyên níu chặt lấy cổ áo lông của Tiêu Trì Dã, nghiêng đầu cúi xuống, gần như dộng hẳn vào môi hắn. Tiêu Trì Dã phong trần mỏi mệt, bèn lập tức ghì chặt vòng tay, siết Lan Chu đến nỗi gần như không thở nổi.

Thẩm Trạch Xuyên hơi tách ra, khẽ nói: “Ta ở——”

Tiêu Trì Dã đang nhấn gáy Lan Chu, lại hôn xuống một cái nữa. Nỗi tương tư đau đáu sau bao tháng ngày chia xa đều ở trong đó, hắn chỉ giả vờ được giây lát, rồi ngay lập tức lộ nguyên hình, hôn Lan Chu đến tê dại đầu lưỡi.

Tiêu Trì Dã chân dài sức đại, bế Thẩm Trạch Xuyên kiểu này chẳng nhọc chút nào. Đầu Thẩm Trạch Xuyên chạm hẳn vào cành mai, tuyết đọng trên cảnh rơi ồ ạt xuống, chui tọt vào trong cổ áo hai người, cóng đến độ cả hai run lên.

“Khuất đô lạnh phát gớm.” Tiêu Trì Dã cảm khái.

“Ngươi nóng phát gớm.” Thẩm Trạch Xuyên đáp.

Tuyết trong cổ Tiêu Trì Dã chảy dọc sống lưng, lạnh đến nỗi hắn phải hít hơi, nhưng lại chẳng nỡ buông người trước mắt ra, chỉ đành ôm Lan Chu nhảy nhảy mấy cái.

Vừa mớ nhảy là đầu Thẩm Trạch Xuyên cụng hẳn lên cành mai, tức thì nào tuyết nào hoa ào ạt đổ ập xuống phủ kín vai hai người.

“Tiêu nhị!” Thẩm Trạch Xuyên bóp lung tung beng mặt Tiêu Trì Dã.

Tầm mắt Tiêu Trì Dã bị che mất, bèn lui mấy bước, ngã thẳng xuống ụ tuyết dày sụ. Tro tuyết thốc lên mặt Thẩm Trạch Xuyên, ngực Tiêu Trì Dã phập phồng, kẹp hai má Lan Chu rồi lại duỗi cổ cắn một cái.

“Đại ca muốn ta ở yên ở đại cảnh vài hôm, nửa đêm ta mới vén chăn bỏ chạy,” Tiêu Trì Dã nhe răng để lộ nhuệ khí phi thường, “mấy bữa nữa thể nào ca cũng phải vào đô cho ta một trận cho xem.”

“Đi đường lương mã Đông Bắc à?” Thẩm Trạch Xuyên bỗng chộp lấy cổ tay Tiêu Trì Dã, dán lại gần hỏi, “trên đường không gặp đại tẩu với Tuân nhi sao?”

“Có gặp,” Tiêu Trì Dã hơi cau mày, “nhưng mà ngựa của ta nhanh hơn, nên vượt bọn họ luôn.”

Tiêu Tuân đang trên đường nằm bò lên bậu cửa, Lục Quảng Bạch bèn hỏi: “Nhìn cái gì đấy?”

Tiêu Tuân mặt tỉnh queo chỉ con đường phía trước, nói: “Nhị thúc bảo thúc đi tè cái rồi sẽ về ngay.”

Chúng cận vệ đang dàn hàng đằng trước đồng loạt phụt cười.

Lục Quảng Bạch vỗ vỗ đầu Tiêu Tuân, nói: “Nhị thúc của con là một tên ba que xỏ lá, người như thế không tin được đâu.”

Lục Diệc Chi đang vỗ mặt thoa phấn bên trong kéo “soạt” rèm xe ra, oai phong lẫm liệt giơ ngón tay chỉ thẳng về trước mặt, truyền lệnh: “Chạy, chạy nhanh, dù không bắt kịp thằng nhóc thối này thì cũng phải đuổi kịp giờ cơm tối của nó!”

Tiêu Trì Dã phi đến là nhanh, ở Khuất đô vẫn ăn một trận đòn, nhưng mà Kỷ Cương lại hơi mủi lòng, đá đít cho hắn cuốn xéo.

***

Mấy hôm sau, Thẩm Trạch Xuyên chỉnh lý lại ghi chép, chấm mực đặt bút xuống trang giấy trắng. Chao đèn lồng ánh sáng, khi tất thảy âm thanh đã lắng xuống, rốt cuộc y đã tháo gỡ được mọi chuyện diễn ra với Đại Chu sau năm Vĩnh Nghi.

“Năm Vĩnh Nghi, Thái phó ba lần nhập sĩ, phò tá Thái tử thúc đẩy hoàng sách.” Tiêu Trì Dã nắm tay Thẩm Trạch Xuyên từ phía sau, cùng y viết tiếp.

Trong ván cờ với thế gia, Tề Huệ Liên thua vì Kiều Khang Hải phản bội. Kỷ Lôi và Thẩm Vệ bức tử Thái tử ở chùa Chiêu Tội, kể từ đó, Tề Huệ Liên giả điên bị giam trong chùa Chiêu Tội, huyết mạch Đông Cung hoàn toàn chấm dứt.

Sau đó, Thẩm Vệ nghi Thái hậu định qua cầu rút ván, vung ra ngàn vàng để hối lộ Phan Như Quý, lấy được cơ hội điều đến Trung Bác. Cùng năm ấy, để cứu gia đình Kiều thị, Thiệu Thành Bích đã lợi dụng chức vụ, lấy trộm bản đồ quân sự Trung Bác biếu cho Thẩm Vệ, nhưng Thẩm Vệ lại thất hứa, Kiều Khang Hải bị sao trảm, Thiệu thị sụp đổ. Thiệu Thành Bích được Trần Trân bảo vệ, mai danh ẩn tích ở Khuất đô kể từ đó, chờ đợi thời cơ.

Thẩm Vệ đến Trung Bác, hòng bảo toàn tính mạng, lúc liên lạc với A Mộc Nhĩ cho thế gia đã nhân cơ hội tặng luôn bản đồ quân sự sáu châu Trung Bác cho A Mộc Nhĩ, cũng giết vợ Bạch Trà vì A Mộc Nhĩ.

Năm Hàm Đức thứ ba, Quyết Tây gặp hạn tai, bố chính sứ Giang Thanh Sơn nợ nần mấy chục vạn lượng bạc, mạo hiểm tội chém đầu để mở kho phát lương. Cùng năm ấy, thứ phụ nội các Hải Lương Nghi hợp tác với đô cấp sự trung khoa hộ Tiết Tu Trác và phái thực kiền ở các nơi tố giác Hoa Tư Khiêm, Hoa Tư Khiêm không đòi được tiền từ thế gia, bí quá làm liều, vì Thẩm Vệ bỏ chạy không đánh nên đã mở ra phòng tuyến sông Trà Thạch Trung Bác, để kỵ binh Biên Sa nhập cảnh.

Viết tới đây, Tiêu Trì Dã khẽ cau mày, vừa chấm mực vừa nói: “Thẩm Vệ là con dê thế mạng cho thế gia, lúc đó nương nhờ A Mộc Nhĩ mới là tốt nhất, sao lão lại tự thiêu, đến tận hôm nay ta vẫn nghĩ không ra.”

“Ban đầu ta cũng không hiểu,” Thẩm Trạch Xuyên nghiêng đầu, “mấy hôm trước Thành Phong sắp xếp lại gia phả Thẩm thị mới tìm được nguyên nhân, nguyên nhân hiển nhiên nhất.”

Tiêu Trì Dã nhìn Thẩm Trạch Xuyên.

Thẩm Trạch Xuyên buông ba chữ: “Thẩm Chu Tế.”

Thoáng chốc, Tiêu Trì Dã đã hiểu ngay, hắn nói: “… Đúng là hiển nhiên thật.”

Hòng tránh phải xung trận, Thẩm Vệ và thế tử Thẩm Chu Tế đã thắt cổ chỉ huy sứ Đôn châu Đàm Đài Long, quay về Khuất đô cũng sẽ thành tội phạm, lão muốn nương nhờ A Mộc Nhĩ, nhưng kỵ binh của A Mộc Nhĩ lại trói Thẩm Chu Tế vào sau ngựa, kéo lê đến chết trên quan đạo.

Thẩm Vệ là quân cờ bỏ của cả hai phe.

“Rồi năm Hàm Đức thứ tư,” Tiêu Trì Dã tì cằm lên tóc Thẩm Trạch Xuyên, “Lan Chu của chúng ta vào đô.”

Trong nháy mắt, bao chặng đường xưa chợt ùa về, ngỡ như mới chỉ là hôm qua.

Thẩm Trạch Xuyên một mình vào đô, cùng lúc ấy Tiêu Ký Minh chiến công hiển hách bị buộc phải giao Tiêu Trì Dã ra. Chó điên nghiền ép bởi thù hận và chó dữ đeo nặng gông xiềng, cắn xé lẫn nhau giữa mây mù dông tố Khuất đô, máu tanh bắn tung tóe khi răng môi quấn quýt, cháy bỏng như thiêu đốt.

Khuất đô hun đúc nên Thẩm Lan Chu và Tiêu Sách An, bọn họ là đao khiên lưng kề lưng, và là dục vọng mặt đối mặt.

Rạng đông dần ló, Tiêu Trì Dã nghe thấy chuông ngân ở nơi xa, hắn vuốt tóc Thẩm Trạch Xuyên, giọng điềm tĩnh chắc nịch: “Từ hôm nay, Lan Chu của ta chính là cộng chủ thiên hạ, năm mươi sáu vạn đại quân của thiên hạ tất cả đều quy về dưới trướng ngươi. Minh đường cao điện tự do ra vào, Tiêu Sách An ta treo đao nơi tiền đường, thay ngươi trấn thủ hào hùng bát phương.”

Thẩm Trạch Xuyên ngước mặt, Tiêu Trì Dã nâng mũ miện chín châu, vững vàng đội lên đầu thay y. Bên tấm áo bào đỏ rực diềm vàng, Tiêu Trì Dã lại sờ vào viên ngọc đỏ trên tai phải Thẩm Trạch Xuyên.

Khổng Lĩnh bên ngoài gõ cửa ba lần.

“Giấu đao vào vỏ.” Biểu tình Thẩm Trạch Xuyên có chút biếng nhác, ngón tay trượt lên trên cánh tay Tiêu Trì Dã, cuối cùng nắm cằm Tiêu Trì Dã, kéo lại gần, nhưng không hôn lên, mà khẽ thì thầm, “Bộ vương bào trên người ngươi là ai làm đây?”

Tiêu Trì Dã thủ thỉ: “Người vụng trộm đấy.”

Thẩm Trạch Xuyên bật cười, lui nửa bước về sau, cùng đứng sóng vai với Tiêu Trì Dã ở trước cửa. Trong khoảnh khắc cánh cửa rộng mở, Tiêu Trì Dã nâng tay, nhẹ nhàng đủn eo Thẩm Trạch Xuyên.

Thẩm Trạch Xuyên bước ra, thấy trời cao đã hửng sáng, mái hiên trùng trùng điệp điệp, Trung Bác Ly Bắc Khải Đông, toàn thể cựu thần ba phương đang quỳ gối, Khổng Lĩnh giơ ấn ngọc, dẫn đầu cất tiếng hô: “Ngô hoàng——”

Tất cả cùng cung hô: “Ngô hoàng vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế!”

Vầng dương chợt ló dạng, muôn vàn ánh hào quang vượt mái hiên băng qua hạt châu, Thẩm Trạch Xuyên chói lọi đến lóa mắt giữa vạn chúng quỳ phục.

***

Ở nơi từng là đài ngọc long, Thẩm Trạch Xuyên xây nên Thương Vân các. Bên trái là ghi chép về văn thần, Tề Huệ Liên, Hải Lương Nghi, Diêu Ôn Ngọc danh rạng quần thần, bên phải là phổ hệ của hãn tướng, Tiêu Phương Húc, Tiêu Ký Minh, Thích Trúc Âm, Lục Quảng Bạch, Doãn Xương danh định thiên thu, phía cuối bức họa hoàn chỉnh ấy là một bức song hùng đồ không phân tả hữu tôn ti.

Từ nay chiến tranh thiên hạ hóa ngọc lụa, chọn quốc hiệu “Tĩnh”, năm “Thuần Thánh nguyên niên” bắt đầu với Thẩm Trạch Xuyên.

Ngày hôm nay hội hè hân hoan nơi cao điện, Chu Quế lành tính ngót nửa đời say khướt trước điện, tinh thần hăng hái, cầm đũa gõ vang chén rượu, nghêu ngao “Trời xanh trong cánh cò bay lả, nước mù khơi sương tỏa nao nao”, hát được một nửa thì bắt đầu xúc động rơi nước mắt, nắm tay Khổng Lĩnh nói: “về sau Từ châu chỉ còn mình ta trông coi, ông ở đây, cái hồi mà ông còn là dân thường…” nói đến đó thì vứt tiệt luôn mặt mũi, òa khóc sướt mướt, “Đoạn đường này đã truân chuyên xiết bao, Thành Phong à, ta vui lắm!”

Phí Thịnh bên cạnh giơ chén cụng ly, cười nói: “Tôi về với đại nhân, đến Đoan châu đi, làm ‘trung can nghĩa đảm’ của tôi này!”

Bọn họ cười sảng khoái, xong rồi lại chụm đầu nghẹn ngào.

Phí Thịnh gạt nước mắt, nói: “Mả cha nó chứ, ta đi rồi thì sau này ai chăm sóc cho chủ tử đây!”

“Phủ…” Đàm Đài Hổ cũng gạt nước mắt, hô toáng lên sửa lại, “Nhị gia của ta trấn thủ vương đô, đến con ruồi cũng đừng có mơ bén mảng được đến gần Hoàng thượng nhá, ngươi lo đếch gì!”

Nghe thế, Cao Trọng Hùng bỗng òa khóc tu tu.

Dư Tiểu Tái vội vàng hỏi: “Ngươi sao thế? Ngươi có đi đâu!”

“Ta nhớ Nguyên Trác,” Cao Trọng Hùng bưng mặt lau nước mắt, cúi đầu lạy Đàm Đài Hổ, “Nguyên Trác muốn ta giao Hổ Nô cho ngươi, ngươi, ngươi phải đối xử với nó thật tốt đấy!”

“Mẹ kiếp,” Đàm Đài Hổ lại lau mặt, song giọng nghiêm trang, “ta hiểu ý của Nguyên Trác tiên sinh, tính ta xấu, y giao mèo cho ta, sau này ta thấy mèo như thấy y, làm việc gì cũng phải suy xét kỹ lưỡng, không dám cục cằn.”

Hoắc Lăng Vân nốc liền mấy chén, trầm giọng nói: “Chẳng biết Kiều chỉ huy sứ đi đâu rồi…”

“Kiều Thiên Nhai đi rồi, chủ tử khóa luôn Ngưỡng Sơn Tuyết vào rương, ân tình này, đã vẹn!” Phí Thịnh xốc lại tinh thần, thắc mắc: “sao chẳng thấy chủ tử với Nhị gia đâu nhỉ?”. Thách‎ thánh‎ tìm‎ được‎ ~‎ T𝑹ÙM‎ T𝑹𝗨YỆ𝑵.Vn‎ ~

***

Mũ miện cửu châu không rơi xuống, nhưng hạt châu chung đụng, vang lên những âm thanh lay động giàu ý vị trong bóng tối. Ngai vàng kia cao đến hãi hùng, là nơi ngoài tầm với nhất trên thế gian này, Thẩm Trạch Xuyên bị đè xuống đó, ngưỡng cổ.

Mồ hôi hòa quyện, mỗi một lần, lại là một lần ngọc châu lay động.

Áo choàng của Thẩm Trạch Xuyên còn không cởi, chỉ lộ ra mỗi đôi tay, bấu chặt lưng áo Tiêu Trì Dã.

Đây là chốn cẩn trọng trang nghiêm nhất trên cõi đời này, cũng là vị trí mà bao người khao khát nhất trên cõi đời này. Nhưng Thẩm Trạch Xuyên không quan tâm, Tiêu Trì Dã cũng không quan tâm.

Triền miên quấn quýt cháy bỏng nồng nhiệt đến tận đầu ngón chân.

Con sói trên lưng Tiêu Trì Dã bị cấu đau điếng, nhưng hắn yêu cái cảm giác đau này.

Thẩm Trạch Xuyên tan ra ở nơi đây, viên ngọc bị ngậm vào, chỉ có thể ráng híp đôi mắt đượm tình. Một lần rồi lại một lần, y kêu “A Dã” vô tội vạ.

Tiêu Trì Dã chống cùi chỏ vào lưng ngai, vây Lan Chu trong vòng tay mình. Hắn cắn người, tiếng cười trầm khàn tràn ra trong sự hung bạo: “… Lan Chu.”

Thẩm Trạch Xuyên bị giữ chặt cả hai tay.

Lan Chu.

Lan Chu à.

Mũ miện ngọc châu trên đầu Lan Chu sau rốt cũng tuột xuống, lăn lông lốc bên cạnh. Tiêu Trì Dã ngửi y, giây phút cận kề gang tấc có chút phấn khích tàn nhẫn: “Giam lại rồi.”

Ngón tay còn ngo ngoe được của Thẩm Trạch Xuyên mân mê hổ khẩu Tiêu Trì Dã, vừa như khen ngợi, lại vừa như khuyến khích. Y vừa nguy hiểm mà cũng vừa chết người đến thế, ánh mắt thấp thoáng vẻ đê mê dán vào gò má Tiêu Trì Dã.

Quyền thế bị giày xéo dưới chân, bọn họ nghiến nát nó, chìm đắm trong cơn nóng bỏng đã lâu rồi chưa tận hưởng. Bao phân tranh ấy bỏ lại nơi tít tắp xa xăm, từ nay về sau bọn họ nương tựa vào nhau.

Cộng sinh thiên địa.

===

[1] Trích《 Châm ngôn Lã Mông 》

• Tác giả có lời muốn nói:

Toàn bộ truyện mô phỏng theo thể chế nhà Minh, chế độ ở địa phương được đơn giản hóa thành chế độ châu phủ, đồng thời trộn lẫn với tư liệu nhà Thanh, khuếch đại tác dụng của nhóm phụ tá. Rất nhiều chi tiết cần phải tham khảo thì lại lười, không chặt chẽ, tình tiết viết tùy hứng bản thân.

Độ dài cũng lệch hẳn so với bao nhiêu lần dự tính, thời gian thu dây vượt quá sức tưởng tượng. Dàn ý kết thúc lúc chỉ còn đúng một trang, để viết rạch ròi các tuyến lẫn lộn tốn rất nhiều công sức, lựa chọn các chi tiết nhỏ cũng là vấn đề, thường xuyên cảm thấy có thể viết liền một mạch đến hết luôn, mà đến khi bắt tay vào viết thật thì lại xa lắc xa lơ. Các nhân vật ở phần sau sau khi rút lui thì kiềm chế khơi gợi tình cảm hết mức, xong phục bút là không dài dòng thuật lại nữa, nhưng mà vẫn không hài lòng được như mong muốn. Trong quá trình đăng truyện nhận được rất nhiều đề xuất, vô cùng cảm ơn.

Nói chung ba quyển cảm giác ổn, có vướng mắc, nhưng mà nhiệt huyết thì từ đầu chí cuối chỉ có dâng chứ không có sụt, những vấn đề khác sau khi kết thúc nghỉ ngơi sẽ suy nghĩ lại chút. Quyển hạ tốt nhất giữ lại bản thảo, đề phòng phải xin nghỉ.

Cảm ơn đã đồng hành suốt 10 tháng, tuyệt cú mèo.

• Lời của Rose:

Cũng mấy ngày rồi. Lúc bắt đầu vào làm chương này mình cũng bình tĩnh lắm. Làm được một nửa là bắt đầu khóc, đến đoạn của Ngọc trở đi là vừa type vừa khóc, khóc rồi lại type, type khóc. Nói chung mình đã theo truyện quá lâu rồi, ngày nào nó cũng ở trong đầu, mình đã quen thuộc nó quá rồi nên chẳng biết liệu mình sẽ còn cảm thấy gì ở cuối cùng không. Cuối cùng cũng đâu phải kết thúc đâu, còn quá trình beta dài dằng dặc, rồi còn đọc lại, đọc lại để mà viết những bài phân tích cho nó (mong là viết nổi) mà mình muốn, và còn rất nhiều cái khác nữa. Vậy mà cái lúc viết đến ghi chép của Lan Chu, tổng kết lại biết bao những sự kiện trong mấy năm này, mấy năm phiên vân phúc vũ giang sơn đổi dời người đi người tại, mình lại lần chần, mình biết thứ mình đang cảm nhận dẫu không phải kết thúc, nhưng là kết thúc của một thứ. Có nghìn hai nghìn chữ cuối mà làm dây dưa đến tận mấy tiếng thế này. Rồi beta lại lại khóc chút nữa. Vẫn còn ngoại truyện, vẫn còn cái để mình tiếp tục khóc, nhưng đây là lời tạm biệt dành cho chính văn rồi. Lời cảm ơn của mình sẽ để ở kết ngoại truyện.