Tiêu Tương Cô Tịch

Chương 31: Náo loạn dưới Âm phủ (2)



- -------------------

Âm phủ trông vậy rất rộng lớn, tôi và Ti Mệnh chỉ mới đi dạo thành Phong Đô ở riêng điện thứ chín, đã mỏi nhừ hai chân.

Vậy mà đám tiên nhân trên Thiên giới lúc nào cũng khinh thường những người trong Âm phủ, hừ mũi cho rằng Âm giới chật hẹp, văn hoá lại thấp kém. Đúng là ếch ngồi đáy giếng.

Địa phận Âm phủ có tất cả mười điện trải dài, gọi chung là Thập Điện Diêm Vương, nhưng phải đi qua vài thần điện mới có một toà thành toạ lạc. Người âm đổ xô về rất đông, lâu ngày biến thành quách trơ trọi thành chốn phồn hoa đô thị không hề thua người trần. Cư dân ở mỗi thành lại vô cùng đa dạng, như ở thành Phong Đô nơi tôi đứng chủ yếu là ngạ quỷ, còn những người âm bình thường tập trung rải rác tại các thành Vô Ảnh, thành Vọng Tâm,…

Ti Mệnh nói: “Ngàn vạn lần đừng qua thành Vô Ảnh, nếu mắt ngươi bị mờ. Dân trong thành đều là âm hồn cả, cũng có ngoại hình tương tự như người trần, nhưng mà không hiểu sao, ba hồn bảy vía của họ rất mờ đục. Như kiểu sương mù ấy, tương truyền rằng, đó là do thế đất thành Vô Ảnh rất lạ, cư dân ở đấy một thời gian đều thay đổi như vậy”.

Tôi lấy làm lạ, nói: “Thế đất ở đấy có thể biến một âm hồn từ đen thành trắng sao?”.

Ti Mệnh chưng hửng: “Sao? Cái gì đen thành trắng?”. . Đam Mỹ H Văn

Tự nhiên tôi lại không còn cao hứng bàn luận nữa, cũng suy nghĩ thật nghiêm túc một hồi, phải chăng thường ngày tôi diễn đạt ý tứ của mình quá khó hiểu, nên ngay cả người uyên bác như Ti Mệnh cũng cảm thấy theo không kịp rồi chăng.

Tôi sửa lại tay áo, cười: “Đâu có gì. Tôi chỉ nghĩ ấy à, toà thành đó nhất định rất thích hợp cho những người chạy nợ”.

Bà ta vỗ mạnh vào vai tôi: “Đấy! Cứ nói thẳng như vậy có phải dễ hiểu không”.

Hừ, tôi vừa nói một câu chẳng liên quan gì đến câu đầu tiên mình hỏi.

Đi quanh quẩn lại đến khu phố bán y phục và những đồ nữ trang, dãy phố này trang hoàng phong cảnh rất hoa lệ, đẹp mắt. Tôi thích thú đứng dưới bóng râm mà những chiếc ô giấy nhiều màu sắc treo lơ lửng mang lại. Ban công của ngôi nhà nào cũng treo vài giỏ hoa bỉ ngạn, màu đỏ tươi của hoa hoà lẫn với màu ngói đỏ sẫm, trông xa thật ấm áp, hài hoà.

Ti Mệnh gật gù, tung vài thỏi ngân lượng trên tay: “Cô nương xinh đẹp của ta dẫn đường giỏi thật đấy. Vậy để xem, y phục dưới Âm phủ có vừa mắt bản tiên cô không nào”.

Tôi và Ti Mệnh cầm lên vài bộ đồ ướm thử, hiển nhiên bản thân tôi vẫn luôn trung thành với màu thanh thiên nhạt và tông màu be sữa. Vậy nên, khi cả hai hớn hở quay lưng lại nhìn nhau, tôi và Ti Mệnh chia làm hai thái cực tương phản nhau hoàn toàn, khiến chủ hàng không bệnh mà hoa mắt.

Tôi ỉu xìu: “Sao tiên cô toàn đi chọn mấy bộ y phục trông già đau đớn thế?”.

Ti Mệnh cũng cong cớn đáp lại: “Y phục màu đen và tím đậm thì có gì không tốt? Còn ngươi ấy, tiểu cô nương, lúc nào cũng xanh xanh trắng trắng, khi bị vấy bẩn thì trông như cái bát đất mà xem”.

Tôi phủ nhận: “Không thể nào, tôi sẽ không bao giờ diện quần áo đẹp để đi uýnh lộn đâu”.

Đấy đơn giản chỉ là một câu nói bày tỏ thành kiến của riêng tôi, nhưng Ti Mệnh đột nhiên lại lên cơn nói nhiều. Bà ta khua môi múa mép về lịch sử sáng tạo ra trang phục, các kiểu trang phục đặc biệt mang thần thái, rồi phân tích tông màu đen, màu tím đậm của bà ta lợi ích nhiều như nào, rồi moi móc tông màu xanh và be sữa của tôi nhiều bất tiện ra sao,… Nghe vào tai sao quay cuồng đầu óc, chủ hàng tức quá quát ầm lên: “Không mua thì thôi, mời hai vị trả áo!”.

Tôi cười tươi roi rói, trả tiền cho bộ y phục mà tôi cần mua kia. Ai ngờ đâu, chủ hàng đã lôi cổ cả hai bay ra ngoài.

Ti Mệnh gào ai oán: “Các ngươi nhớ mặt bản tiên cô này đấy. Bản tiên ghi tên cửa tiệm nhà ngươi rồi, kiếp sau đầu thai thì nhớ mặt bản tiên”.

Tôi chẳng nói chẳng rằng, cứ lừ lừ đi tiếp, tìm lối ra khỏi khu phố náo nhiệt sầm uất này. Ti Mệnh lại gào lên, kêu đợi bà ta với.

Trên đường đi qua một con phố vắng vẻ, quang cảnh in vào mắt tôi có những toà nhà cao và hẹp, nằm san sát bên nhau, như những chiếc thoi được sắp xếp chỉnh tề. Đang thong thả dạo bên Ti Mệnh, đột nhiên một cơn rùng mình rọi từ đỉnh đầu của tôi xuống thẳng tới tứ chi, như thể vừa có một cơn gió lạnh buốt, cắt ngang qua da mặt.

Sau lưng chỉ có sương mờ ảo, heo hút, và bóng dáng chim quạ đậu trên những cành cây bị gãy.

Tôi vốn dĩ không phải người nhát chết, hay chính là khái niệm yếu bóng vía người nhân gian thường bảo, nhưng mà khoảnh khắc ngẩng mặt nhìn lên cao, khi tầm mắt của tôi vừa đáp xuống trên ban công của ngôi nhà gần đó, những gì trông thấy đã làm tôi ám ảnh cho đến mãi sau này.

Một con ngạ quỷ mang gương mặt méo mó, quỷ dị, đang ở trên ban công nhìn vào tôi chằm chằm.

Con ngạ quỷ đó toàn thân màu xanh xám, những bọng nước ghẻ lở chi chít khắp mọi nơi trên người, khiến tôi có cảm giác, chỉ cần chạm vào nhẹ, đám bọng nước ấy cũng sẽ nổ tung ra. Dáng người của nó gầy tong teo, xương xẩu, hầu như chỉ còn da bọc xương, giữa ngực lằn ra mảng xương sườn kinh dị. Bên dưới, bụng ngạ quỷ phình to, nổi lên đầy gân máu, như đang ôm trên mình cái bọc trứng khổng lồ.

Đôi mắt đầy dịch mủ của nó đang trợn trừng nhìn tôi.

Tôi biết mình đã sợ chết khiếp rồi, song không hiểu thế nào vẫn có thể bình tĩnh nhìn lại nó, quả tim bên trái lồng ngực đập thình thịch, gương mặt của tôi tái mét vì khiếp đảm.

Ti Mệnh bất an bảo: “Sao Âm phủ lại có sinh vật gớm ghiếc này! Trông nó tà đạo quá, tiểu cô nương, chúng ta rời đi thôi”.

“Xuống thành Phong Đô phải đề phòng đám ngạ quỷ này đấy. Khi nào miệng chúng nhả ra lửa, có nghĩa là chúng đã rất đói rồi. Ai biết đâu được, chúng sẽ liều lĩnh giở trò gì để quấy phá mọi người”.

Nhìn kĩ lại, thì nơi này có vẻ hơi ẩm thấp, những vách tường trong phố còn đọng nước và bám đầy rêu phong. Không ngoại trừ khả năng, đây là khu ổ chuột dành riêng cho ngạ quỷ.

Tôi và Ti Mệnh ra khỏi thành Phong Đô, trong sắc chiều tà và tiếng quạ thê lương.

Bây giờ đã quá nửa buổi chiều, chúng tôi cần đi qua cửa Tử để quay về nhân thế. Có lẽ, khi trời chập choạng tối, tôi sẽ sớm có mặt ở Đông Hải Thanh Khâu. Tuy tôi vẫn còn giao ước với Diêm Vương về vấn đề của Lăng Bình công chúa, nhưng hôm nay, tôi không còn cách nào ở lại. Ông ta nói, sẽ tự tìm ra giải pháp để liên lạc với tôi khi Lăng Bình xông đến.

Con đường dẫn tới cửa Tử xuyên qua một cánh đồng cỏ lau hẻo lánh. Gió thổi đìu hiu, những biển lau phất phơ, vàng úa, lay động như tiễn đưa hồn người. Tôi ngửi thấy hương cỏ lau nhè nhẹ, cũng dường như trông thấy một ảo ảnh mơ hồ, bay trên ngọn cỏ lau, hoạ lên trong đáy mắt.

Giữa con đường chia đôi đồng cỏ lau, bóng lưng một thiếu niên trẻ tuổi nắm tay một cô bé, cả hai hớt hải chạy như bay, trong không gian vang lại những tiếng cười trong vắt. Rõ ràng là dáng vẻ chạy trốn, thế nhưng lại giống như trò đùa tinh nghịch thông thường của trẻ thơ.

“Ha ha, cửa Tử kia rồi. Còn lâu bọn chúng mới bắt được huynh nhé!”.

“Á, còn không mau chạy đi! Bọn chúng tóm muội làm thịt xiên bây giờ”.

“Lo gì, huynh là ca ca của muội mà”.

Cô bé váy hồng cười khúc khích, khúc khích, lại suýt nữa vấp phải dải lụa đào bên hông. Thế rồi cô bé nhẹ vung tay, hất tung dải lụa xinh đẹp lên không trung, dải lụa được gió nâng bồng bềnh, phiêu lãng, đẹp như một thảm hoa đang nghiêng mình trong nắng. Cả hai tiếp tục nắm tay chạy giữa con đường ngập cỏ lau, tiếng cười vang không ngớt, bỏ lại tấm lụa sau lưng đang từ từ rơi xuống…

Khép lại lưu luyến của ai kia.

Tôi nhắm mắt, dứt khoát thanh tỉnh lại tinh thần. Mở mắt ra, đã không còn những hình ảnh lạ lùng xuất hiện xung quanh nữa. Âm phủ nhiều tử khí, ngoại trừ việc không tốt cho cơ địa thân thể, đúng là một nơi mà thần tiên và người thường không bao giờ nên tới. Tôi cũng từng nghe kể, cõi âm lưu giữ ký ức của muôn vàn chúng sinh, sau khi chết tất cả đều về đây tề tựu, trong số đó, có rất nhiều chấp niệm và oán hận không thể đi siêu thoát.

Từng nhành cây, ngọn cỏ,… dưới Âm phủ, đều có thể mang theo bên mình một hồi ức xa lạ, trường hợp tôi vừa thấy chính là như thế này.

Đúng là tôi không được khoẻ rồi, nên quay trở về thôi.

***

Khi tôi và Ti Mệnh đặt chân đến cửa Tử, năm quỷ canh trấn giữ đang khó nhọc, hợp sức kéo hai cánh cửa sắt nặng như núi Thái Sơn. Ánh sáng lờ mờ của những cây đèn toả ra hai bên đường không đủ để soi sáng Âm phủ tối tăm này, nhưng vẫn đủ cho tôi nhìn rõ biểu cảm trên gương mặt bọn họ, nhất thời hiểu ra được điều gì.

Một nữ nhân ăn vận giống phán quan đang giám sát bầy quỷ. Thấy hai người lạ mặt từ xa xuất hiện, nàng ta vội ngăn lại: “Xin nhị vị dừng bước! Bên ngoài Âm phủ đang có trận bão cát rất mạnh, ta buộc lòng phải cho đóng cửa Tử”.

Tôi và Ti Mệnh nhìn nhau đầy tiếc nuối, nữ nhân có chức vụ kia không ngại thẳng thừng, nói: “Gần đây, thời tiết ở Âm giới mỗi lúc một dị thường. Bão cát từ cốc Quỷ thổi đến cũng nhiều hơn, trận bão này xem chừng còn kéo dài lâu lắm. Chi bằng, để đảm bảo an nguy, đêm nay hai vị hãy ở lại tránh bão”.

Lời nói của nữ tử ấy còn chưa dứt, đám quỷ canh năm người không đủ lực, làm hai cánh cửa nặng nghìn cân ở kia bật tung ra, lập tức cuốn cuồng phong như vũ bão vào trong. Mấy người chúng tôi nghiêng ngả trên mặt đất, gió rít gào rất mạnh.

Nữ tử mặc quan phục phán quan ném về phía cửa Tử hai viên ngọc gì đó, một bức tường màu xanh chắn ở giữa khe cửa rộng lớn, những luồng gió bị bức tường ngăn lại. Hiểu ý của nàng ta, đám quỷ canh vội vàng bò dậy, nhanh tay đóng cửa vào.

Hai cánh cửa nghìn cân được khép chặt, vang lên một tiếng ồn kinh động khắp cánh đồng cỏ lau.

Khi tiếng động êm xuôi, Ti Mệnh hớn hở khen: “Ngọc của ngài tuyệt quá! Xin cho hỏi, dưới Âm phủ có bán ngọc này không?”.

Đương nhiên câu trả lời là không, Ti Mệnh thừa hiểu những pháp bảo quý giá như vậy sao có thể bán rong tràn lan được. Chẳng qua, bà ta chỉ đang tìm cớ hỏi dò tên bảo vật mà thôi.

“Làm hai vị thất vọng rồi. Đây là ngọc Vẫn Phong, ngoại trừ bổn toạ ra, thì trên thiên hạ không biết có ai từng dùng không”.

Cánh môi của nữ quan ấy hơi cong lên, ngữ điệu nói ra có đôi phần tự mãn nhiều hơn là tự hào. Tôi phụng phịu, có gì mà phải lên mặt như vậy chứ. Sau này, tôi cũng sẽ tìm ra được một pháp khí chỉ dành cho riêng mình, trên thiên hạ này chỉ mình tôi sử dụng, coi như chính là độc nhất vô nhị rồi.

Chuyện còn lại, tôi và Ti Mệnh buộc lòng phải qua đêm tránh bão.

Thật ra, đi qua đêm chỉ là chuyện nhỏ nhặt. Ngày xưa, mỗi lần đến bữa ăn, Nguyệt Lão vẫn thường kể cho tôi nghe, chuyện các cô nương hồng hạnh vượt tường như thế nào, rồi đám tiên nữ trên Thiên giới, mỗi đêm lại trèo tường vui vẻ đi chơi với tình lang. Nguyệt Lão nói, nữ nhân đi qua đêm là chuyện quá bình thường, còn khuyến khích tôi ngủ bên ngoài vài đêm để tinh thần sảng khoái.

Nghĩ đến chuyện Cục Tuyết, tinh thần của tôi hôm nay không được vui vẻ gì. Đi qua đêm là chuyện rất hợp lý.

Chỉ ở lại một đêm, nên tôi và Ti Mệnh vào quán trọ để thuê chung một phòng. Ti Mệnh ngồi duyệt một đống sổ mệnh cách, còn tôi lên giường nằm nghỉ ngơi, chờ đợi đến bữa tối. Tôi nghĩ mình chỉ mới ngủ thiếp đi một lúc, vậy mà mở mắt ra, đã nghe thấy tiếng ếch nhái kêu đêm.

Ti Mệnh không có ở trong phòng, tôi mở tung cửa sổ ngoài ban công. Phố sá ngoài kia đã lên đèn, những dãy đèn lồng lung linh nối đuôi nhau tới tận chân trời, giống như một dải sao băng từ thiên đường rơi xuống. Ngọn núi phía xa tít tắp nằm im lìm trong đêm, muôn vàn đom đóm lơ lửng quanh đỉnh núi, tựa như là ma trơi. Khung cảnh Âm phủ ban đêm đẹp như một bức tranh, cũng u ám như một chiếc quan tài khổng lồ chôn sâu trong lòng đất.

Dưới đường, hoà lẫn trong dòng người qua lại, có một con ngạ quỷ đang dáo dác nhìn quanh, vừa kịp lúc nhìn lên lầu ba nơi tôi đứng. Tôi kinh hoàng, đóng sập cửa sổ lại.

Chính là ngạ quỷ đáng sợ ban nãy ở trong thành Phong Đô.

Sinh vật ấy không ngờ lại theo tôi mờ ám, đêm khuya thanh vắng rồi, muốn doạ chết nhau sao. Tôi tự nhủ trong lòng, ngoại trừ dáng vẻ ghê rợn, kinh dị ra, nó chẳng có bản lĩnh gì để đe dọa tôi cả. Ngạ quỷ dưới Âm tào không biết nhiều thuật pháp, chúng chỉ quen sống ở những nơi thật tối tăm, nhớp nhúa, lúc nào trong bụng cũng đói ăn. Xét về tu vi và tuổi tác, một yêu hoa mọc trên Dao Trì như tôi cần chi phải sợ đám quỷ con này chứ.

Nghĩ vậy, tôi dứt khoát mở cửa, đang định hùng hổ quát, mới nhận ra con quỷ nọ đã biến mất khỏi đó. Mấy người đi bộ trông thấy một nữ tử mặt mày hung tợn trên lầu cao, đang trong cơn thịnh nộ, tất nhiên sẽ không còn nhã hứng tản bộ nữa. Thế là con đường trước quán trọ của tôi bỗng vắng vẻ thê lương, không có một bóng người.

Quán trọ này không phục vụ cơm nước, tôi đói quá đành phải ra ngoài đường.

Mãi mới tìm được một nơi bán bánh bao, tôi thong thả dùng bữa. Cách đấy không xa lắm, có một toà công đường xử án đã bỏ hoang, tôi bèn chọn làm nơi dừng chân, thưởng thức chỗ bánh bao ngon lành.

Ăn được vài ba miếng, cắn tới phần nhân thịt, tôi suýt gãy cả răng. Cứ tưởng tiệm bánh bao kia là hoàn toàn bình thường, ai ngờ bọn họ đều quen thói gia truyền, thay nhân thịt bằng một đống tàn hương, trong đó có cả cọng chân hương đã gãy. Tiếng khạc thức ăn của tôi vô tình thu hút người đi đường, họ rẽ hướng đi vào con hẻm nhỏ.

Qua khe hở của con sư tử đá, tôi nhận ra có hai người đi đến, một người mặc áo trắng, một người áo bào đen. Bọn họ đi cạnh nhau tương phản như hai quân cờ vậy.

Hai người ấy vừa mới bước chân vào, đã tung cho tôi một sợi tơ buộc hồn. Tôi nhìn hai tay và eo bị trói chặt, càng giãy càng khó hiểu, nhất thời không biết phải làm sao. Đây là cái khỉ gì, Tịnh Yên tôi còn chưa kịp ăn no nữa!

Tôi hướng mặt về phía hai người họ: “Này, mấy người sao lại vô lý vậy! Ngồi ăn ngoài đường cũng phải đi tù sao”.

“Đi tù? Không ổn rồi, sao bây giờ khẩu khí của cô ta lại lớn thế? Chẳng phải khi sáng, chúng ta đã áp giải cô ta lên điện Tần Quảng Vương chờ định nghiệp rồi sao?”.

Người mặc y phục trắng đi vài vòng xung quanh, phán xét tôi một hồi: “Sao cô còn bỏ trốn?”.

Áp giải, thì ra đây chính là Hắc Bạch Vô Thường câu hồn dưới Âm gian.

Tôi tròn mắt, dựa theo lời nói lấp lửng của đám Bạch Vô Thường này, rõ ràng bọn họ đã nhận lầm tôi với ma cô nào rồi. Có thể là nữ tử tên Lưu Tinh thật chăng.

Tôi nói: “Mấy người đang bảo Lưu Tinh à? Tôi không phải cô ta”.

Hắc Vô Thường trừng mắt: “Cô quên cả tên mình rồi à? Còn lấy lại được dung nhan thời trẻ, có phải cô đã tự ý đi ra Vọng Hương đài?”.

Tôi tính giải thích vài câu như nào đó, để bọn họ thật sự tin tôi không phải Lưu Tinh. Lại nhận ra ngoại trừ việc nhai đi nhai lại câu phủ nhận vô nghĩa, tôi chẳng biết chút gì về con người Lưu Tinh cả. Tôi đành ra hạ sách, bịa ra cho mình một thân phận hợp lý, một cô nương trẻ mới tạ thế ở trần gian chưa lâu.

Hắc Vô Thường nắm chặt tay thành quyền, hơi thở lạnh lùng nói: “Lai lịch vong linh không tồn tại. Là dân nhập cư trái phép vào Âm phủ, tội càng thêm tội, bắt!”.

Ôi trời, cả hai tên lưỡi dài này cũng nằm trong bộ quản lý nhân khẩu sao? Lúc bấy giờ, tôi mới nhận thức được hoàn cảnh của mình rất cấp bách, bèn liều mạng dùng thuật pháp độn thổ. Trường hợp tồi tệ nhất chính là tôi sẽ phải dùng đến nguyên thần để trốn chạy, bỏ lại thân xác mình ở đây.

Nhưng cách ấy chẳng khác gì tự diệt.

Đột nhiên, một thân ảnh màu đen từ trên mái nhà nhảy vụt xuống, trong ánh sáng muôn bầy đom đóm bay lập loè, nhanh như chớp, cướp tôi đi ngay trước mắt bọn họ.

- -------------------