Tiêu Tương Cô Tịch

Chương 30: Náo loạn dưới Âm phủ (1)



- -------------------

Lần trước khi tôi vào Âm phủ, đã phải chuốc say đám quỷ canh một bữa rượu tơi bời. Còn bây giờ, theo chân Ti Mệnh để đi làm công chuyện, tôi có thể đường đường chính chính, vênh mặt mà đi rồi.

Đấy là tôi tưởng tượng ra thế. Còn thực tế chứng minh, tôi không nên đặt niềm tin sắt đá vào Ti Mệnh, bởi không sớm cũng không muộn, tôi sẽ bị vỡ mộng trong lòng.

Trái tim của tôi đã nứt đôi, khi đám quỷ canh xé toang tờ giấy thông hành trước mặt tôi và Ti Mệnh như thế...

Ruột gan trong người tôi nhảy dựng hết cả lên, một phần vì đói, một phần vì tôi rất muốn xoay chân tung cước cho lũ quỷ canh một trận: xé giấy như vậy là muốn có ý gì?

Nhưng đám quỷ canh được tuyển chọn toàn là những tên quỷ cao to lực lưỡng, mắt đỏ như máu, chỉ riêng về thể lực, sẽ bẻ gãy chân tôi dễ như bẻ cục xương. Còn so về pháp lực, tôi hoàn toàn có thể đánh vỡ đầu bọn chúng, nhưng lại thiếu sót một thân thế hiển hách để che đi hậu quả. Quanh đi quẩn lại, ở nơi đất khách quê người vẫn là nên nhường nhịn.

Tên quỷ đầu đàn tỏ rõ thái độ không kiêng nể, cất giọng ồm ồm, nói: “Đây là lộ dẫn giả”.

Sao có thể? Ti Mệnh đã nhiều lần đến Âm phủ rồi, tôi đang định nói thế, Ti Mệnh đã kéo tôi ra một góc, bà ta cười hề hề: “Tiểu cô nương, lặng im nghe ta nói…”.

“Thật ra ta mới chỉ đến đây vài lần, ừm… để hái hoa như mà ngươi biết đấy. Còn mọi khi, ta đều sai gia nhân đem sổ mệnh cách đến Âm phủ, hôm nay tiện thể nên mới tự đi thôi”.

Tôi lại không lấy làm lạ gì: “Tôi biết lộ dẫn đó là giả, nhưng chúng ta không thể cãi được sao?”.

Ti Mệnh đơ người ra một lúc, bà ta lén lút ghé sát vào tai tôi, nói nhỏ: “Trước kia, Diêm Vương từng cho ta lộ dẫn, nhưng cũng chỉ có vài tờ thôi, bản tiên đã dùng hết từ lâu rồi. Ta nghe đồn đám quỷ canh này không được thông minh lắm, nên mới làm giả giấy thông hành cho tiện. Ai ngờ, hôm nay bọn chúng lại phát hiện mười mươi”.

Ti Mệnh lại dắt tôi quay trở lại quỷ môn, bà ta nhìn thẳng vào mặt đám quỷ canh dữ tợn, tên nào tên nấy cầm trên tay một chiếc thương khổng lồ, hai mắt sáng quắc như hai hòn lửa lớn. Rồi bà ta dịu giọng: “Hì hì… quỷ canh đại nhân, nghe bọn ta giải thích cái đã”.

Ti Mệnh xoè tay ra, ở giữa lòng bàn tay hiện lên hai lượng bạc sáng loáng: “Quỷ canh đại nhân, nhìn thấy gì hay không?”.

Ái chà, bà ta hôm nay lại hào phóng thế này. Tưởng thế nào, thì ra người Âm phủ cũng giống người Thiên giới, cứ trông thấy tiền là quýnh hết cả lên.

Quỷ canh đầu đàn cầm lấy hai thỏi bạc trên tay, nhoắng một cái, ngọn lửa hồng trên tay gã biến nó tan thành bụi.

Tôi và Ti Mệnh đồng loạt há hốc mồm.

“Ngươi…! Có biết số tiền đó kiếm được vất vả đến thế nào không hả?”. Ti Mệnh trợn tròn cả hai mắt, phẫn nộ đến mức mặt đỏ tía tai. “Không nhận thì trả chứ!”.

Tôi ra hiệu cho Ti Mệnh bớt giận mà lấy lại bình tĩnh, dù sao bà ta cũng đã mất tiền rồi, bù lu bù loa thì có ích gì nữa. Sau đó từ từ thu linh lực vào trong lòng bàn tay, tôi cười: “Vậy các người trông thấy gì hay không?”.

Rầm! Đám quỷ canh dậm mạnh cây thương dài xuống đất, bọn chúng trừng mắt nhìn lại tôi, tên nào tên nấy bày ra tư thế sẵn sàng để nghênh chiến, dũng mãnh như thiên binh thiên tướng nhà trời. Thế là tôi chột dạ, đành phải thu tay về.

“Không cần dông dài nữa, lộ dẫn kia là giả. Chúng ta còn phải tiếp đón rất nhiều vong hồn đến, mời hai người về cho”.

Rượu mừng không uống, giờ rượu phạt cũng không? Ti Mệnh giờ đây chắc phải cố nín nhịn lắm rồi, mới kiềm chế không phi đống sổ mệnh cách vào mặt lũ quỷ canh. Tôi và Ti Mệnh cứ đi lòng vòng bên ngoài Quỷ Môn Quan mấy vòng, Ti Mệnh mải mê ngẫm nghĩ điều gì đó, còn tôi vừa đi vừa xoa cái bụng đã đói meo của mình.

Khung cảnh bên ngoài Quỷ Môn Quan vẫn hoang vu như vậy. Giống như lần đầu đặt chân đến, gió ngàn vi vu thổi, tiếng gió đập vào những vách núi xa xa như tiếng quỷ hồn than khóc. Nghe nói dải đất dài dằng dặc bên kia bờ sông có tên là cốc Quỷ, một vùng đất chết hoàn hảo, để cô lập những vong quỷ mang tội sớm đã bị trục xuất. Ngay cả người âm cũng chỉ dám đứng nhìn từ xa, không ai bén mảng cả. Vì vậy, những câu chuyện liên quan đến cốc Quỷ vẫn mang nhiều màu sắc truyền kì.

Nhưng mà con người vốn là sinh vật rất khó hiểu, cái gì con người chưa thể biết, thì càng dẫn dụ trí tò mò. Tôi cũng ngu xuẩn như bọn họ, có điều, yêu hoa tôi vẫn khác với họ một chút, khi nào biết mình sắp phải đi chầu trời, tôi sẽ vào cốc Quỷ tham quan.

Đang ngắm cảnh vu vơ, bóng dáng một nam nhân từ trên trời bay xuống đã cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Hắn bước đến quỷ môn, chợt để ý thấy hai người chúng tôi đang dạo quanh với bộ dạng ngốc nghếch, nam tử đó hướng về phía bên này, nháy mắt, nhếch môi cười.

Cái giống nam nhi gì không biết? Đã nháy mắt với cô nương nhà người ta, vậy mà vẫn để cô nương nhà người ta đứng chơ vơ ở ngoài, còn một thân một mình hắn đi vào?

Ngọc… tôi lẩm nhẩm trong miệng, nhớ lại hình ảnh hắn vừa đưa một viên ngọc để làm lộ dẫn cho đám quỷ canh kia. Luồn tay vào trong túi, tình cờ túi áo của tôi cũng có một viên ngọc hình tròn.

Đây chẳng phải ngọc Viêm Hồn, lộ dẫn đặc biệt vào Âm phủ mà tôi được tặng sao! Vậy mà tôi hoàn toàn quên mất, thật là phí của trời.

Ti Mệnh nhìn viên ngọc màu đen, lấp lánh toả sáng trên tay tôi, bà ta trầm trồ nói: “Mắt ta có lầm không? Đây là ngọc Viêm Hồn thượng hạng, lộ dẫn đặc biệt xuống Âm phủ, lại có thể soi sáng trăm dặm giống như ngọc Như Ý của Địa Tạng Vương Bồ Tát! Trời ơi tiểu cô nương, ngươi kiếm đâu ra vật quý hiếm như này?”.

Đồng ý rằng đây là ngọc thượng hạng, nhưng soi sáng được trăm dặm thì quá mức khoa trương rồi, ai mà tin cho nổi. Tôi chưa từng biết ngọc Viêm Hồn lại quý hiếm thế này, cho đến khi nghe Ti Mệnh suýt xoa. Vậy mà tên Yêu vương ấy sẵn sàng cho tôi như cho một bịch thóc, hắn thực sự giàu có đến mức không cần bảo vật sao?

Tử Nhan thật có phúc, tự dưng vơ được một ca ca kết nghĩa chống lưng giàu như vậy!

Tôi bình thản giơ ngọc Viêm Hồn cho đám quỷ canh xem, trong ánh mắt chứa chan niềm tin của Ti Mệnh.

Lũ quỷ canh nhìn nhau một lát, rồi đứng tản ra, trang trọng mở lối cho tôi và Ti Mệnh đi vào. Ti Mệnh còn tranh thủ quay sang, lè lưỡi chế giễu tên quỷ canh đầu đàn. Tôi dứt khoát khoác tay bà ta, nhảy qua hàng lửa giăng bên ngoài quỷ môn.

Tuy đang là buổi trưa ban ngày, nhưng ở Âm phủ không bao giờ có nắng, cũng không có ánh sáng giống như ở nhân gian. Bầu trời Âm phủ vào buổi trưa nhuộm sắc màu đỏ tía, từng mảng mây chập choạng đan xen, giống như sắc độ giữa buổi hoàng hôn vậy.

Tôi và Ti Mệnh chậm rãi bước qua đường Hoàng Tuyền. Bây giờ việc trông thấy những cô hồn dã quỷ lập lờ trên thảm hoa bỉ ngạn cũng không phải chuyện xa lạ gì nữa. Thế nhưng, lần trước cũng là lần đầu tiên đến đây, tôi lại không để ý đến một túp lều bằng hoa ở ven đường Hoàng Tuyền. Túp lều đó phủ đầy hoa bỉ ngạn, dường như được xây cho người ở, ngay lối vào có một cột mốc nhỏ đề hai chữ ‘Âm Ca’, nằm nép mình bên những thảm hoa đỏ tươi như máu.

Đám cô hồn dã quỷ không một ai dám bén mảng lên túp lều hoa đó. Tôi trộm nghĩ, hay đấy là nơi ở của Hoả Thần Bích Hoạ. Lần trước, nàng ta cũng xông ra chặn đường tôi ở ngay khu vực này. Nhưng nhìn quanh không thấy bóng dáng nàng ta đâu.

Ở đây, ngoài dã quỷ ra thì chỉ có tôi và Ti Mệnh là bằng xương bằng thịt.

Ti Mệnh thì phủ nhận, ai lại đi sống ở ven đường Hoàng Tuyền. Đường Hoàng Tuyền dài dằng dặc như sông, lại cô độc vắng vẻ, xung quanh không có nổi một quán xá hay chợ búa sinh hoạt. Bà ta nói hoa bỉ ngạn thơm ngào ngạt như thế, đêm xuống có ai ngủ được không? Huống chi nằm nghỉ trong túp lều hoa kia.

Tôi nói, vậy chắc đấy là tiểu cảnh trang trí cho Âm phủ thêm đẹp, bà ta liền đồng tình.

Hôm nay ở Âm phủ có vẻ rất khác thường. Ti Mệnh bảo chắc bởi vì Âm phủ mới đổi luật lệ mới, nửa tháng đến một tháng mới chuyển giao vong hồn giữa các điện, tôi lại không hề biết, nên hôm nay thấy trên đường vắng vẻ mới lấy làm lạ thôi.

Tôi đứng đợi Ti Mệnh bên ngoài điện Diêm Vương, bà ta nói sẽ nhanh chóng xong việc để tôi không phải đợi.

Ngồi cũng được một lúc, trong lúc tôi đang tẽ những cánh hoa chơi, đột nhiên nghe thấy tiếng khóc tu tu từ trong điện vọng ra. Tôi vội vàng xông vào, thử xem là chuyện gì.

Giữa chính điện, Diêm Vương ôm chặt tay Ti Mệnh, khóc như một đứa trẻ lên ba. Ông ta vừa khóc vừa kể khổ: “Tinh quân, ngài xem như nào đi, nữ nhân dữ dằn đó cứ dăm ba hôm lại đến đây làm loạn, điện Diêm Vương của ta, cầu Anh Thủ của ta, chỗ nào cũng sửa đi sửa lại biết bao nhiêu lần rồi”.

Ông ta ăn vạ lâu như vậy, nhưng dường như Ti Mệnh vẫn chưa hiểu chuyện gì: “Ài, là trường hợp oan hồn nào khiến cho cả Diêm Vương phải kinh sợ như này? Còn hỏi ý kiến của bản tinh quân ta?”.

Diêm Vương không ngại quát ầm lên: “Còn oan hồn nào nữa, là Lăng Bình công chúa Phượng tộc Thiên giới các người đấy! Cô ta từ đợt sau khi lịch kiếp về, tuần đầu tiên ở lì đập phá điện của ta, tuần thứ hai cho nổ cây cầu Anh Thủ, chính là lối đi lại lên điện! Tuần thứ ba, ba, ba…” - Diêm Vương thở nhọc nói: “Cô ta ngồi lên bàn của ta, không cho ta xử lí đống công văn, còn đòi thay chức vụ Diêm Vương này để phế truất ta nữa”.

Ti Mệnh đơ người ra một lúc, nụ cười vẫn còn đông cứng trên gương mặt bà ta. Ti Mệnh liếc nhìn tôi, tôi cũng đành vô tư nhìn lại.

Diêm Vương gào lên tiếp: “Bà đấy! Tinh quân bà viết mệnh cách như nào mà cô ta lại bốc hoả như vậy, hại cho Âm phủ của ta phải đứng mũi chịu sào. Bản vương nhục chết mất, bản vương nhịn chết mất… Đã một trăm năm rồi, ai mà biết nữ nhân chết bầm đó hôm nào lại đến lăng mạ chứ?”.

Thì ra là cô công chúa Lăng Bình vô duyên vô cớ nóng như lửa đốt ấy. Năm đó, tôi cũng chỉ định trổ ít tài biến hoá, ngoáy bút cho Lăng Bình lịch kiếp thật thú vị mà thôi. Trên thực tế, mỗi kiếp của Lăng Bình rất ngắn, còn chưa kịp nếm trải phong hoa tuyết nguyệt hay hỉ nộ ái ố trên đời thì đã đi chầu trời mất rồi. Điều đó thì có gì không tốt, tôi sắp xếp để nàng ta không phải dây vào những yêu hận tình thù nơi trần thế, thứ mà dày vò con người hơn cả liều thuốc độc, kiếp nào Lăng Bình cũng bình an quay trở về Âm phủ, không phải quá tử tế rồi sao.

Ti Mệnh vuốt tóc mái trước trán, mồ hôi ướt sườn sượt: “Diêm Vương, ông bình tĩnh, cứ hét ầm như vậy làm bản tinh quân hoang mang, đau đầu quá! Ta thừa nhận mình đã viết mệnh cách, nhưng trên đó viết gì thì lâu rồi ta không còn nhớ nữa… Chắc chỉ là những chuyện nhỏ nhặt chốn nhân gian mà thôi, hà cớ gì Lăng Bình phải làm um như thế”.

Bà ta nhìn tôi, hỏi: “Phải không tiểu cô nương, ngươi nhớ mệnh cách không?”.

Diêm Vương chun mũi, đợi một câu trả lời cặn kẽ từ tôi và Ti Mệnh.

Tôi là người chắp bút viết trang mệnh cách đó, đương nhiên phải nhớ rõ như in rồi. Tôi đành mô tả lại: “Thưa Diêm Vương, ngài hãy nghe tôi nói. Trong mệnh cách viết, kiếp thứ nhất Lăng Bình đem lòng yêu cô gái hàng xóm trạc tuổi mình, thế nhưng một ngày kia, cô nàng ấy đến nhà gửi thiệp hỷ, Lăng Bình bị ngộ độc trong đám cưới ấy, không may thì qua đời. Đấy là do tai nạn. Kiếp thứ hai, nàng ấy sặc nước chết vì nghe phu quân kể chuyện gây cười quá, đấy là do bất cẩn. Kiếp thứ ba, Lăng Bình đem lòng yêu một công tử đẹp trai, nhưng lại không nên duyên được với chàng trai đó, bởi vì nàng ta bị lên cơn đau tim. Đấy là do bệnh tật, do số mệnh. Mệnh cách của Lăng Bình hoàn toàn bình thường, xin Diêm Vương truy xét, tránh trách lầm Ti Mệnh tinh quân”.

“… Chỉ có vậy thôi sao?”.

Diêm Vương vuốt bộ râu màu đồng, rồi ngẫm nghĩ một lát: “Mệnh cách của Lăng Bình đâu có gì quá đáng, tất cả những kiếp nạn khổ cực còn chưa đụng tới được cô ta. Bản vương thấy cô công chúa này đúng là đang làm quá! Khắp bốn bể tám cõi, ai ai cũng biết Phượng tộc chỉ còn hai công chúa, cả hai được bà Phượng vương gia gia chiều quá hoá hư rồi!”.

Xem ra Diêm Vương tại chức này cũng là một người rất am hiểu đạo lý. Ti Mệnh đặt chồng mệnh cách mới lên bàn, cười khan: “Ông đã bớt giận bản tinh quân chưa? Nếu Lăng Bình không muốn nếm trải khổ cực, muốn có một kiếp người bình an, thì bắt buộc nàng ta phải là người yểu mệnh. Bọn ta cũng chỉ làm vậy để đảm bảo cân bằng thiên đạo thôi, làm gì có thứ gì vẹn cả đôi đường chứ?”.

“Nhưng Lăng Bình công chúa đấy, cô ta làm gì có đạo lý như ngài! Cô ta cứ đến Âm phủ đập phá như thế này, vừa khiến người Âm phủ phẫn nộ, vừa ảnh hưởng đến công việc cai quản người chết của bản vương”. Diêm Vương lại khóc lóc lưng tròng: “Bản vương cho sửa sang phủ đệ đến đâu, cô ta liền phá hỏng đến đấy. Có năm, sửa công trình vẫn còn chưa xong nữa, mà cô ta đã đến đạp đổ hết… Có khi ngày mai cô ta lại sắp sửa đến đấy, đã vài tháng rồi cô ta chưa tới đâu”.

Ti Mệnh nhún vai: “Ha ha. Bản tinh quân thắc mắc, Diêm Vương, chẳng lẽ Âm phủ của ông không có nổi một hai người tài giỏi để đối phó được với nàng ta sao? Đấy là cái ông cần, chứ không phải tối ngày loay hoay sửa sang phủ đệ đâu”.

Diêm Vương nghiến lợi, nói: “Tinh quân còn phải nhắc nhở sao! Chính vì tại cô ta, tại cô ta, mà năm nào bản vương cũng phải tổ chức một hội thi pháp thuật, chỉ để tìm ra một người tài giỏi nhất, mỗi lần Lăng Bình đến thì đánh đuổi cô ta. Trước kia, Âm Ca yêu dấu của ta còn ở Âm phủ này, Lăng Bình công chúa làm sao dám ngông cuồng phách lối! Hắn chỉ việc hát một bài để sai khiển cô ta, sau đó đạp cô ta ra khỏi Quỷ Môn Quan. Bây giờ người tài càng lúc càng khó kiếm”.

Thật ra, pháp lực của Lăng Bình công chúa cũng đâu phải thuộc dạng cao siêu gì, một yêu hoa lờ mờ như tôi còn có thể đấu được, thậm chí nếu Lăng Bình không dùng mấy thứ khí tức phượng hoàng để bắt nạt người khác, thì tôi và nàng ta hoàn toàn có thể đấu tay đôi. Để xem, sau cùng mèo nào cắn mỉu nào.

Tôi bình thản nói: “Xin hỏi Diêm Vương một câu hơi khi dễ. Mỗi tháng, ngài ban thưởng bổng lộc cho người kia như nào?”.

Ti Mệnh ngơ ngẩn trước câu hỏi của tôi, không hiểu tôi hỏi xa như vậy để làm gì.

“Cô hỏi những người đánh đuổi Lăng Bình sao?”.

Diêm Vương trả lời: “Đương nhiên là lương bổng mỗi tháng, xây phủ đàng hoàng, cơm bưng nước rót”.

Thế là trong đầu tôi liền nảy ra một ý, đôi khi là cơ hội để tôi kiếm lời rồi.

***

Tôi và Ti Mệnh dùng cơm trưa ở một quán trong chợ, chợ đó có tên là ‘Âm Phủ’. Chợ Âm Phủ nằm trong thành Phong Đô, ở ngay điện thứ chín Bình Đẳng Vương cai quản.

Khi tiểu nhị vừa dọn bàn ăn lên, hai chúng tôi muốn rớt cả con mắt. Những món ngon có tên gọi mỹ miều trong thực đơn như ‘Tôm hùm ngậm xả ớt’, ‘Phượng hoàng tắm lồng son’‚ ‘Thỏ ngọc trong hoa tuyết’,… hoá ra đều là những thức ăn được chế biến từ hương. Đúng vậy, là hương nhang để thắp cho người chết.

Còn những món canh hầm hảo hạng được họ đun nấu từ nước ngũ vị hương, người nhân gian dùng để lau bàn thờ…

Tôi vô cùng thất vọng, nhìn lại những bàn ăn xung quanh. Thực khách quanh tôi đều là những vong hồn, vong quỷ tứ phương cả, bọn họ ngồi gắp thức ăn từ hương rất ngon lành. Ti Mệnh vừa ăn, vừa mếu máo: “Tiểu cô nương, ta vừa mới gọi bàn ăn thượng hạng đấy, cốt chỉ muốn cho ngươi ăn no bụng một chút. Ai ngờ… Thực đơn này rất đắt, ráng mà ăn cho hết, cơm chan nước mắt cũng phải cố mà ăn”.

Thế là tôi vừa ăn vừa khóc.

Những vong hồn trong quán lại thầm nghĩ, chắc tôi và Ti Mệnh là những người mới chết, trên dương thế nắm tro còn chưa lạnh, cả hai còn lưu luyến trần gian nên mới khóc đau lòng như vậy. Chủ quán đành phải ra an ủi: “Hai người chớ nên đau lòng quá. Mệnh số đã hết rồi, kiếp người vốn dĩ là cát bụi, chi bằng bắt đầu cuộc sống mới như người Âm phủ đi”.

Tôi lắc đầu: “Thực đơn này khó ăn quá. Tôi không thể tiêu hóa thức ăn từ nhang được”.

Chủ quán kinh ngạc: “Cô chưa từng ăn bao giờ sao? Hay là, người nhà cô nương ở dương thế quên việc dâng hương khói, thế nên cô mới cảm thấy nó khó ăn như vậy?”.

Ông ta lại tiếp tục động viên: “Mới chết, khẩu vị vẫn còn như người trần, không có gì phải lo. Một thời gian sau, hai người cũng sẽ nghiện hương nhang mà thôi, này nhé, ở trong Âm phủ này, nhang là đặc sản đấy”.

Biết được tất cả quán ăn ở Âm phủ đều vậy, tôi ảo não vô cùng. Bảo Tịnh Yên tôi nhét đầy hương vào bụng, trong khi tôi còn sống sờ sờ chẳng phải vô lý lắm rồi sao.

Ăn xong Ti Mệnh ngồi thừ ra. Cũng phải thôi, lần đầu tiên Ti Mệnh hào phóng gọi một bàn ăn thượng hạng, vậy mà lại là đồ ăn chỉ dành cho người chết. Làm gì có ai không tổn thương cho được. Nhưng mà, bà ta có can đảm ăn hết bằng đấy món, ăn đến hết thì thôi, kể ra nghị lực cũng thật phi thường lắm.

Suy nghĩ cần phải làm gì để thay đổi bầu không khí ủ dột bao trùm này, tôi bèn khoác tay Ti Mệnh cười tươi: “Hiếm khi mới có dịp xuống Âm phủ thăm thú, tôi và tiên cô đi dạo một vòng đi, coi như giúp bao tử được tiêu hoá nhanh hơn”.

Ti Mệnh nhìn tôi bằng ánh mắt phó mặc, tôi cũng chỉ cười cho qua chuyện, kéo tay Ti Mệnh đi.

Thành Phong Đô đúng là đô thành náo nhiệt bậc nhất chốn Âm giới, vậy nên không thiếu nơi thú vị để tôi và Ti Mệnh dừng chân. Nếu người chết vẫn còn nghiệp báo chưa trả hết, hoặc người nào có tâm nguyện sau khi chết muốn tiếp tục tu thân, tích phúc đức… để kiếp sau có một nhân quả tốt đẹp hơn, thì sẽ ở lại trong Âm phủ, mưu sinh như người trần. Trần sao âm vậy, chỉ khác rằng ở đây ngày và đêm không phân biệt rạch ròi, không có ánh sáng mặt trời như nhân gian mà thôi.

Tôi cũng phát hiện ra vài quán hàng rong trưng bày những món đồ rất lạ, dành riêng cho người âm, đương nhiên ở Thiên giới lẫn nhân gian đều không thể kiếm được. Ví dụ như bảo vật hỗ trợ quỷ hồn di chuyển được nhanh hơn, bởi vì hầu hết các âm hồn đều bay là là rất chậm, hoặc lá bùa tránh gió, bảo vệ những âm hồn sức yếu không lo gặp gió mạnh thổi bay trên đường,…

Trong đó, đương nhiên có cả giấy thông hành đi vào Âm phủ.

Tuy nhiên, những tờ giấy mỏng tang đấy lại có cái giá đắt cắt cổ. Tên chủ quầy giải thích với chúng tôi, cả Âm phủ chỉ có vài nơi được làm giấy thông hành dưới sự cho phép của Diêm Vương. Làm giấy thì đơn giản, nhưng để xin con dấu từ Diêm Vương không phải chuyện dễ dàng. Vì thế, số lượng giấy thông hành hàng năm làm ra là rất ít, giá bán không thể nào rẻ được. Hơn nữa, ngoại trừ những kẻ có thân phận đặc biệt, được ra vào tự do, người âm bình thường chẳng mấy khi được ra khỏi Âm phủ. Vậy nên tổng hợp tất cả những điều trên, giấy thông hành làm ra chỉ để bán cho giới vương tôn quý tộc.

Ti Mệnh bảo tôi: “Thấy gì chưa, bản tiên cô làm giả lộ dẫn thì có gì sai đâu?”.

Tôi bảo may là Thiên giới không sinh ra loại giấy thông hành quái đản này. Nếu không, ngày xưa tôi và phủ Nguyệt Lão ra đường đi làm ăn mày rồi.

Giấy thông hành quý giá là thế, tôi bèn hỏi chủ quầy: “Ông chủ, thế còn ngọc Viêm Hồn thì sao? Ở dưới Âm phủ này có nơi nào bán không?”.

Ông ta trợn tròn mắt, như thể trông thấy ma ban ngày: “Trời đất, cô nương ơi! Cô mới về đây sao? Ngọc Viêm Hồn là viên ngọc quý bậc nhất, chỉ xuất hiện trong truyền thuyết dưới Âm phủ thôi đấy, làm sao tìm ra nó mà bày bán như kẹo? Nó là lộ dẫn đặc biệt xuống Âm phủ, giúp cô di chuyển bất cứ ngóc ngách nào trong Âm phủ cũng được. Ngọc Viêm Hồn còn phát ra ánh sáng rất đẹp, người âm coi trọng nó ngang ngửa với ngọc Như Ý trên tay Địa Tạng Vương Bồ Tát”.

Tôi mừng quýnh như mở cờ trong bụng, Yêu vương à Yêu vương, ông sắp trở thành vị thánh trong lòng Tịnh Yên tôi rồi đấy.

- -------------------