Tô Đường Công Tử

Chương 16



Nàng hơi trầm ngâm, nghĩ đến các điển tịch đã từng đọc, nói: “Tô Thảng luôn không có cảm giác muốn ăn, theo như những gì ta thấy…” nàng còn chưa nói ra miệng, Tô Mị Nương đã vẫy tay ra bên ngoài: “Thảng Nhi, đang nói ngươi đấy, mau vào mà nghe cho kỹ đi.”

Tô Thảng ngoan ngoãn thành thật đi vào, có lẽ là đã chờ bên ngoài cả nửa ngày. Lư Tú Nhi hiếm khi thấy hắn giống như một đứa trẻ gia giáo, gọi Tô Mị Nương một tiếng “Mị di nương”, sau đó gật đầu với nàng một cái, cũng không nói nhiều. Chẳng lẽ là hắn … Thẹn thùng sao? Lư Tú Nhi nghĩ đến đây, liền âm thầm bật cười.

“Được rồi, Tú Nhi ngươi nói cho Thảng Nhi nghe đi.”

Khuôn mặt Lư Tú Nhi đỏ lên, đã gặp mặt nhau mỗi ngày ở Thượng Thực Cục, nhưng vì sao giờ phút này cứ cảm thấy kỳ lạ như vậy? Giọng điệu của nàng cũng dịu dàng hơn mấy phần, nói: “Nếu không muốn ăn, ăn ít và nôn mửa, cần khai vị, bổ tỳ vị. Ví dụ, quả cau, ngũ vị hương chính là một trong những vị thuốc phù hợp. Mị di nương có nguyên liệu, có thể làm thử xem. Ngoài ra, cháo bao tử heo, bánh củ cải, nước gừng đường, sườn hầm hạnh nhân hạt dẻ bạch quả… cũng có thể làm.”

Tô Thảng trừng to hai mắt: “Có nhiều món như vậy thì sao nàng không làm sớm cho ta ăn?”

Lư Tú Nhi lại cảm thấy chuyện không có gì: “Hoàng Thượng bảo ta thiết lập thực đơn cho ngài, chứ đâu bảo ta đúng bệnh hốt thuốc cho ngươi.”

Nói vậy cũng đúng. Tô Thảng không còn lời gì để nói nữa, chỉ cảm thấy Lư Tú Nhi vẫn chưa thật sự đã thắng ở trong lòng, vì thế tâm hóa tro tàn.

Lư Tú Nhi thấy hắn im lặng không nói, không có thần thái ương ngạnh dương dương tự đắc như ngày thường, bỗng dưng có chút thương cảm, nói với Tô Mị Nương: “Bây giờ nhà bếp có trống không, nếu có thì ta đi nấu một chén cháo bao tử heo cho ngươi?”

Tô Thảng tuy có chút giận dỗi nhưng vẫn nhắm mắt theo đuôi phía sau Lư Tú Nhi đến nhà bếp. Tô Mị Nương dựa theo chỉ thị của Lư Tú Nhi, chuẩn bị bạch truật, quả cau, gạo trắng, gừng tươi, thì là và tiêu xay. Lư Tú Nhi bỏ bạch truật, quả cau, gừng vào bao tử heo làm sạch, mỗi một bước đều cho Tô Mị Nương xem kỹ.

Chờ sau khi lửa to đã chuyển sang lửa nhỏ bắt đầu hầm từ từ, trong lúc nghỉ tay, Lư Tú Nhi mới giương mắt nhìn thoáng qua bộ dạng ngay góc nhìn lò lửa của Tô Thảng, trong lòng bỗng dưng có chút đau xót. Dù cho hắn có nếm hết các món ngon trên thế gian, cũng không có món nào khiến hắn lưu luyến, nam nhân ngay cả mỹ thực cũng cảm thấy vô vị này, đến tột cùng có thứ gì có thể ở lại trong lòng hắn...

Chỉ hi vọng chén cháo bao tử này, có thể mở rộng lòng hắn, nếu có thể thì mỗi ngày nấu một chén… không, Lư Tú Nhi nhanh chóng bỏ qua ý định ngu xuẩn này. Với sự kén ăn của hắn, những món dược thiện chỉ có thể thay phiên nhau mà làm, ngày nào cũng nấu cùng một món, hắn sẽ vẫn tiếp tục kén ăn.

Ăn mãi một thứ mà không ngán thì bất kể là người hay là con vật cũng đều rất khó khăn.

Tô Thảng ôm chén cháo bao tử như ôm vật báu, không nỡ ăn. Hắn múc từng muỗng nhỏ, mở miệng liên tục trầm trồ khen ngợi, thái độ nịnh nọt khoa trương đều phơi cả ra ngoài, khiến Lư Tú Nhi kẻ xấu hổ vì bị ánh mắt áp bức của Tô Mị Nương dùng ép đến mức không còn chỗ ẩn thân. Nàng chỉ có thể lấy lý do sắc trời đã tối, vội vàng bỏ chạy, nhưng vẫn không thể tránh khỏi Tô Thảng, bị hắn một đường hộ tống về nhà.

“Tú Nhi, đa tạ nàng đã nấu cháo cho ta.” Tô Thảng thành thật nói lời cảm tạ ở trước cửa Lư gia.

“Không cần cảm ơn.” Lư Tú Nhi đã khôi phục tâm trạng bình thường lúc ngồi trong kiệu, còn làm mặt xấu với hắn, “Nếu làm sớm hơn một chút, có lẽ người sẽ không làm khó dễ tài năng của Thượng Thực Cục chúng ta.”

Tô Thảng cười, nghiêm mặt nói: “Vậy ngày mai nấu thêm một chén cho ta có được không?”

Được một tấc lại muốn tiến thêm một thước. Lư Tú Nhi tỏ ý chí kiên định: “Để ngày mốt vậy, đêm mai ta đi Thành phủ, ngươi bảo Mị di nương nấu cho ngươi ăn đi thôi.”

Tô Thảng cảm thấy cực kỳ mất hứng, chiếc mũi hừ lạnh một tiếng, thầm nghĩ, sớm biết như vậy thì đã phải dùng khí thế gió cuốn mây tan ăn sạch sẽ chén cháo kia. Không, hẳn là nôn ra sạch sẽ.

Ngày kế tiếp, Lư Tú Nhi đến Thành phủ đã cảm thấy phong nhã hơn nhiều, tuy rằng cũng nói đến chuyện ẩm thực, hai huynh muội Thành gia lại pha trà rót rượu, ngồi xuống đất bàn luận suông, rất có khí khái danh sĩ.

Đèn vẽ hình chim phượng, màn thêu chim hạc, xa xa các bức mành trướng bằng chỉ bạc trong Thành phủ bay nhẹ nhàng theo gió, tạo ra ảo ảnh như thật, giống như không cẩn thận đi lạc vào phủ của tiên nhân. Lư Tú Nhi tâm thần nhộn nhạo, dựa vào lan can trên lầu các nhìn về phía xa xa, trăng sáng trên cao, rọi xuống mặt hồ yên tĩnh, có thể nhìn thấy rõ những cánh hoa sen trong suốt, đang bận rộn nở ra.

“Ngô trung bạch ngẫu lạc trung tài, mạc luyến Giang Nam hoa lãn khai, vạn lý huề quy nhĩ tri bĩ, hông tiêu chu cẩn bất tương lai.” Lư Tú Nhi bất giác ngâm tụng một câu 《 Chúng Bạch Liên 》, cười nói: “Cần phải đa tạ Hương Sơn cư sĩ (*) đã đem hoa sen trắng Giang Nam về phương Bắc, ngoài cảnh đẹp ý vui, chúng ta còn có thể dùng hạt sen làm cấu canh cũng rất thuận tiện.”

Phàm là liên quan đến nấu nướng, nàng đều đã từng khảo sát lai lịch của các loại nguyên liệu, đối với thơ ca lịch đại truyền lưu cũng có chú tâm. Có khi Hoàng Thượng dùng bữa, nàng cũng thường kể về một hai điển cố, khiến long nhan hài lòng, so với việc cố sức làm một mâm thức ăn ngon còn hiệu quả hơn rất nhiều.

Thành Mính và Thành Thuyên nhìn nhau mỉm cười, Thành Thuyên nói: “Tú Nhi tỷ tỷ nhớ dạy ta làm chè hạt sen, chờ khi hạt sen nhà ta đã lớn, ta sẽ đặc biệt làm một chén tạ sư.”

Thành Mính liền nói: “Nói đến Hương Sơn cư sĩ, ta liền nhớ tới một bài thơ về trà khác.” Hắn nói xong, đi đến một bên án kỉ trước chấm mặc viết nhanh, Lư Tú Nhi để sát vào tới xem, lại là cùng bạch Hương Sơn tề danh nguyên chẩn sở làm bảo tháp thơ:

Trà.

Hương diệp, nộn nha

Mộ thi khách, ái tăng gia

Niễn điêu bạch ngọc, la chức hồng sa

Điệu tiên hoàng nhị sắc, oản chuyển khúc trần hoa

Dạ hậu yêu bồi minh nguyệt, thần tiền mệnh đối triêu hà

Tẩy tận cổ kim nhân bất quyện, tương chí túy hậu khởi kham khoa. (**)

Chữ Thành Mính viết thơ tự do phóng khoáng, kết hợp cương nhu, Lư Tú Nhi ngắm mà cực kỳ yêu thích, không nỡ dời ánh mắt đi. Thành Thuyên cười nói: “Bức tranh chữ này của đại ca vì sao còn chưa tặng cho Tú Nhi tỷ tỷ?”

Thành Mính ngẫm nghĩ, lắc đầu nói: “Chỉ là nhất thời hứng khởi chứ chưa đạt yêu cầu.” Lư Tú Nhi hơi thất vọng, vẫn là Thành Thuyên hiểu ý huynh trưởng, bỗng nhiên tỉnh ngộ: “Nói như vậy cũng đúng, đây không phải là thơ do đại ca làm, tất nhiên là không thể tặng. Huynh không ngại bây giờ làm một bài thơ tặng cho Tú Nhi tỷ tỷ, cũng để cho hai chúng ta học hỏi văn tài của học sĩ đại nhân chứ...”

Thành Mính mỉm cười nói: “Muội lại trêu chọc đại ca mình nữa rồi.” Trên tay lại múa bút thành văn, không bao lâu đã thành đã biết được một bài vịnh trà tứ tuyệt.

Hai nàng kề sát vào mà xem, Lư Tú Nhi nhẹ nhàng thì thầm: “Khai thành sắc sơn trung hiếu, thủy để phù vân chí thử hồi. Hoà mặc đình tiền sơ thâm nguyệt, tương tư tư vị dữ phong phi.” Trong lòng đột ngột giật mình, chữ “tương tư” ở trong thơ, chính là ý nói tư vị trà thấm vào xương cốt như tư vị tương tư, không thể xua tan. Nhưng rốt cuộc là trà như tương tư hay tương tư như trà, nghỉ một lúc lâu vẫn không hiểu được.

Thành Mính cũng một lúc lâu không dám nhìn thẳng vào nàng, hãy còn bỏ bản thảo bài thơ sang một bên mà chăm lò pha trà, có chút thất thần.

Thành Thuyên trộm đánh giá thần sắc hai người, cảm thấy hết sức buồn cười, nghĩ thầm đại ca đã là tính tình chậm chạp, chỉ có thể để cho nàng ta thúc đẩy nhiều một chút, giật dây bắc cầu cho hắn. Lập tức ho khan một tiếng, lấy bức tranh chữ kia nhét vào trong tay Lư Tú Nhi, nói: “Được rồi, tỷ là khách do ta mời đến, tiểu muội không có gì tặng tỷ, lấy lễ vật từ chối đại ca của ta cũng được.”

Lư Tú Nhi đỏ mặt, vội nói: “Vô duyên vô cớ thật sự là không dám nhận, đáng tiếc Tú Nhi viết chữ không đẹp nếu không cũng sẽ viết một bức đáp lễ.” Tuy mở miệng nói như vậy nhưng vẫn hết sức vui vẻ nhận lấy bức tranh chữ của Thành Mính, nâng niu trong tay không dám buông xuống.

Thành Thuyên cười to, cố ý nhìn thoáng qua Thành Mính, lớn tiếng nói: “Tú Nhi tỷ tỷ đến nhà chúng ta thưởng trà, lại nhận trà lễ của nhà chúng ta, không lẽ chuyện vui sắp đến thật sao?”

Lư Tú Nhi lại càng lúng túng, bức tranh chữ trong tay nhận không được mà không nhận cũng không xong. Thành Mính thấy thế lập tức giải vây cho nàng: “Nước đã nóng rồi. Có thể pha trà.”

Bộ dụng cụ pha trà bằng bạc khảm kỳ lân vàng, hộp đựng trà cũng bằng bạc khảm hoa vàng, muỗng bạc đũa bạc… tất cả mọi thứ đều bằng bạc, có thể thấy rõ thư lễ chi phong dịu dàng đôn hậu của Thành gia. Lư Tú Nhi thấy bộ dụng cụ pha trà tinh xảo như thế lập tức tán thưởng không thôi, Thành Thuyên nói: “Đây là bộ dụng cụ mà Hoàng Thượng ban cho gia phụ, người bình thường chỉ có thể dùng các loại đồ dùng bằng gỗ hoặc tre trúc, Tú Nhi tỷ tỷ xuất thân danh môn, tất nhiên là phải dùng bộ dụng cụ này tiếp đãi tỷ.”

Lư Tú Nhi khiêm tốn hai câu, lại cảm động liếc mắt nhìn Thành Mính một cái, hắn cũng đã hao tổn tâm tư, không muốn nàng có cảm giác bị khinh thường. Thấy Thành Mính đang định pha trà, nàng liền xung phong nhận việc nói: “Để cho ta.” Thành Mính vui vẻ tránh ra.

Lư Tú Nhi lấy một chút muối trong hộp bạc khảm hoa vàng, bỏ vào trong nước vừa sôi trung, lại dùng một chiếc gáo nhỏ bạc chạm có hình chim nhạn vớt lớp bọt trên bề mặt, cho đến khi nước thật thuần khiết. Không bao lâu nước đã sôi trở lại lần thứ hai, nàng lại múc một gáo nước đặt sang một bên, mở nắp hộp bạc mạ vàng lấy bột trà ra đổ vào khuấy đều trong nước. Chờ khi nước sôi lần thứ ba, đổ nước vừa múc vào để nước sôi tạm ngưng, tắt lửa dâng trà. Mỗi một động tác của nàng đều giống như cánh tay áo sặc sỡ bay múa trong không trung, uy nghiêm mà thanh tao. Huynh muội Thành gia lúc nhận lấy chung trà, đều cảm nhận được mùi thơm đặc biệt xuất chúng, không nỡ nhấm nháp.

Lư Tú Nhi pha trà là danh trà “Mông Đỉnh Thạch Hoa” từ Kiếm Nam khu vực Ba Thục. Hàng năm vào mùa xuân, khi búp chè chớm nở, người ta thu được ba sáu mươi lá trà làm “cống phẩm” dâng lên hoàng đế, các cống phẩm loại này thường được trích ra một ít ban thưởng cho hoàng thân hậu duệ quý tộc, cho dù là gia đình phú giáp thiên hạ như Tô gia cũng hiếm khi nhìn thấy. Lư Tú Nhi từng giúp hoàng đế điều chế các loại trà ngon, chỉ ngửi mùi hương đã biết là tuyệt thế danh trà, càng thêm cảm kích với sự hiếu khách của huynh muội Thành gia.

Nhưng mà, khi chậm rãi rót trà vào chung lưu ly, nàng lại bất giác nhớ tới cái hôm phẩm vị Cố Chử Tử Duẩn cùng với Tô Thảng ở Trầm Hương Các.

Trước nay danh trà tựa giai nhân, nàng biết Tô Thảng khen ngợi nàng. Có chút thất thần bưng một chung Mông Đỉnh Thạch Hoa lên, trà này giống như Thành Mính, đẹp đẽ và trầm lặng, tự nhiên uy nghiêm. Còn loại Cố Chử Tử Duẩn ngạo nghễ tự mãn, phong thái vượt trội đám đông, lại rất giống Tô Thảng.

Rốt cuộc thì chẳng thể phân biệt cao thấp giữa hai loại trà ngon này, nàng thích trà nào hơn?

Lư Tú Nhi nhấm nháp trà, người đã si ngốc say sưa. Thành Mính xuyên qua khói hương thơm ngát của trà, chăm chú nhìn nàng, tâm cảnh thoải mái.

Ánh trăng trong vắt từ từ mở ra trên tay bọn họ, giống như một chiếc khăn trắng tinh. Thành Mính có một bầu tâm sự muốn nói, nhưng cuối cùng vẫn ngại có tiểu muội Thành Thuyên ở bên cạnh, chỉ có thể nhìn chiếc khăn kia càng lúc càng trải dài, càng lúc càng trắng trẻo, không có chút dấu vết nào khác.

- --------

(*) Hương Sơn cư sĩ: Bạch Cư Dị (chữ Hán: 白居易; 772 - 846), biểu tự Lạc Thiên (樂天), hiệu Hương Sơn cư sĩ (香山居士), Túy ngâm tiên sinh (醉吟先生) hay Quảng Đại giáo hóa chủ (廣大教化主), là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Đối với một số người yêu thơ văn thì người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Những năm đầu, ông cùng Nguyên Chẩn ngâm thơ, uống rượu, được người đời gọi là Nguyên Bạch (元白). Sau này, khi Nguyên Chẩn mất, lại cùng Lưu Vũ Tích, hợp thành cặp Lưu Bạch (劉白). Đường Tuyên Tông gọi ông là Thi Tiên (詩仙). Ông chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức. Ông nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm... Làm thơ phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân. Thơ của ông lan truyền trong dân gian, thậm chí lan sang ngoại quốc như Tân La, Nhật Bản, có ảnh hưởng rất lớn.

Tác phẩm lớn nhất của ông phải kể đến Trường hận ca, Tỳ bà hành, Tần trung ngâm,.. và Dữ nguyên cửu thư.

(**) Có sách nói bài này của Nguyên Chẩn chứ không phải Bạch Cư Dị. Dịch nghĩa là:

Lá thơm, mầm non

Mến khách thơ, yêu nhà sư

Cối chạm ngọc trắng, sàng dệt chỉ hồng

Nồi nấu màu nhị vàng, chén chuyển men bọt hoa

Sau đêm mời bạn là trăng sáng, trước buổi ban mai gọi ráng mây sớm

Tẩy hết mệt mỏi của bất kể người xưa hay người nay, đến lúc say rượu sau khi uống trà thì tránh được nói khoác.

Qua bài thơ, người đọc có thể thấy Nguyên Chẩn vừa bình trà, vịnh trà, tán trà, thưởng thức trà và tôn vinh trà. Bài thơ mở đầu bằng một chữ Trà như một khởi ngữ để bắt đầu cho hàng loạt những mĩ từ tiếp theo, từ lá thơm, mầm non đến cối ngọc, sàng gấm… tất cả tạo nên tinh hoa trong văn hóa trà. Một điều đặc biệt ở bài thơ này nói riêng và những bài thơ một chữ đến bảy chữ nói chung là sự phát triển từ chữ chủ đề. Mở đầu bài thơ là chữ Trà. nếu nhìn từ trên xuống, từ một chữ nảy ra nhiều chữ (tức diễn dịch). Nếu nhìn từ dưới lên từ nhiều chữ diễn giải nội dung và quy nạp thành một chữ chủ đề (tức quy nạp). Do đó những bài thơ một chữ đến bảy chữ có thể đọc xuôi hoặc đọc ngược đều được.