Hạ Của Anh

Chương 2



Tôi vẫn luôn cho rằng việc nhận được thư tình có cảm giác giống như được nếm trái anh đào chín đầu tiên cuối xuân đầu hạ.

Đương nhiên chúng ta đâu biết quả anh đào nào là quả chín đầu tiên, nhưng tóm lại vẫn có thể tưởng tượng một chút chứ nhỉ? 

Tôi ngồi trong sân nhà sau mưa, vừa nhâm nhi chén rượu vừa đọc hết lá thư có thể được định nghĩa như một lá thư tình. Tôi phải thừa nhận người viết thư không chỉ chân thành mà văn chương cũng rất xuất sắc.

Sở dĩ nói văn chương xuất sắc không phải vì người đó dùng bao nhiêu đoạn ngắn hay đáng giá sao chép mà người đó có thể dùng những từ ngữ ngắn để chọc đúng nỗi lòng tôi.

May sao tôi cũng được coi như một nửa thanh niên văn nghệ nên khá kén chọn trong việc đọc, thế vậy mà lá thư này có thể khiến tôi đọc thêm một lần, thưởng thức thêm một lần.

Lá thư này không dài, vừa hay tôi có thể đọc xong trong thời gian nhâm nhi hết chén rượu.

Thông tin tiết lộ trong thư không nhiều, thậm chí trừ việc nói với tôi người đó rất thích tôi ra thì không nói thêm gì.

Tôi đặt thư lên bàn, đè chai rượu lên để tránh gió cuốn bay đi mất.

Tôi gác chân, hưởng thụ không khí trong lành, thời gian nhàn nhã cùng với hương rượu thơm ngọt. 

Là ai đây ta?

Biết nhà tôi, có thể vào trong khu nhà.

Tôi có quen biết người nào như vậy không nhỉ?

Chú chó Alaska nhà bên xộc ra khỏi phòng, đứng trong sân vẫy đuôi với tôi.

Nửa năm nay, tôi không thân với chủ nhân, nhưng ngược lại rất thân với nó. Với mục đích khiến nó tìm tôi chơi để giết thời gian nhiều hơn, thậm chí tôi còn cố ý mua rất nhiều đồ ăn cho chó.

Nhãi con này vẫy đuôi với tôi, tôi biết ngay nó định làm gì.

Tôi đứng dậy quay về phòng, đi lấy đồ ăn vặt cho nó.

Chờ tôi đi ra, chủ nhân của chú chó cũng đứng ngoài sân luôn rồi.

Nhìn thấy tôi, cậu ấy lại lúng túng như trước. Tôi đoán có lẽ cậu ấy bị mắc chứng sợ giao tiếp xã hội, bằng không tại sao lần nào gặp tôi biểu cảm của cậu ấy cũng quái quái thế kia?

Nhưng mà cũng chưa chắc, biết đâu tướng mạo của tôi vừa khéo đúng điểm mà cậu ấy ghét thì sao?

Mấy hôm trước tôi ra ngoài mua đồ, khi về nhà còn nhìn thấy cậu ấy nói chuyện với bảo vệ khu nhà. Khi ấy cậu ấy dắt chó, vừa đi vừa nói chuyện với người ta, thoạt nhìn có vẻ tự nhiên lắm.

Điều này khiến tôi cảm thấy mình bị nhắm trúng rồi.

Cậu ấy không muốn để ý đến tôi, vậy thì tôi cũng chẳng thèm để ý cậu ấy làm gì.

Tôi đi tới cạnh hàng rào, lắc lư gói thức ăn trong tay. Alaska lập tức đứng dậy chạy tới.

– Đúng thật là…

Tôi đang cho chó ăn, thấy người kia vừa lẩm bẩm vừa bước tới.

– Xin lỗi nhé. – Cậu ấy nói – Nhóc này háu ăn quá.

Tôi bấm ngón tay tính, đây là câu thứ mười cậu ấy nói với tôi trong vòng nửa năm nay.

Thực ra chẳng phải tôi cố ý ghi nhớ làm gì, chỉ vì cuộc sống quá tẻ nhạt, ở nơi vắng vẻ không có tí hơi người nào thế này cũng phải tự tìm chút niềm vui cho mình mới được.

Cậu ấy nói chuyện với tôi rất khách sáo, tôi cũng chỉ đành trả lời khách sáo.

– Chó nào mà chẳng thế. – Tôi nói – Có ăn là mừng rồi.

Cậu ấy mỉm cười, vươn tay xoa cái đầu xù như bờm sư tử của Alaska.

Từ đầu tới cuối cậu ấy đều không nhìn vào mắt tôi, mấy phút hai chúng tôi đứng chung với nhau tự dưng lại trở nên vô cùng mất tự nhiên.

Có điều tôi rất thích mùi nước hoa trên người cậu ấy, hình như tôi đã ngửi thấy ở đâu đó rồi, nhưng nhất thời chưa nhớ ra mà thôi.

Tôi đang suy nghĩ, xa xa một tia sét xẻ ngang bầu trời biến nó thành một món đồ sứ nứt toác thảm thương.

Chẳng bao lâu, tiếng sấm cũng tới.

Tôi đưa đồ ăn thừa cho hàng xóm của mình, bảo cậu ấy mang về cho chó ăn. Sau đó chạy vội về cứu rượu, còn cả lá thư kia nữa. 

Khi cơn mưa thứ hai trong ngày quét qua sân nhà, tôi đã ung dung đứng trước cửa sổ sát đất nếm rượu ngắm mưa. Còn gì thoải mái bằng được ở yên trong nhà vào ngày mưa rơi thế này. 

Cơn mưa rả rích tận đến khi trời tối, tôi uống rượu xong nằm trên sofa đánh một giấc, chẳng ngờ khi thức giấc mưa vẫn còn chưa tạnh.

Đã tám giờ hơn rồi, trời cũng tối sầm.

Tôi nhìn bông hoa đáng thương bên ngoài cửa sổ, ngạc nhiên khi nhìn thấy cậu hàng xóm của mình che ô ra ngoài.

Gió bên ngoài lớn quá, cậu ấy còn chưa ra khỏi sân nhà mình, chiếc ô đã bị thổi gần như lật cả khung.

Không chỉ ô, tôi thấy cả cậu ấy cũng như đang bay.

Ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ tôi đã cảm thấy cậu ấy rất ốm yếu, vừa trắng vừa gầy, gió thổi một cái là gục luôn.

Nhưng mà người ta muốn ra ngoài, tôi cũng không quản được, chỉ có thể mở cửa gọi cậu ấy lại.

Tôi nói:

– Cậu đứng đó đừng cử động!

Mưa gió bên ngoài quá lớn, dường như cậu ấy không nghe thấy lời tôi.

Có điều cũng không nghiêm trọng lắm, khi tôi mặc áo mưa lao ra ngoài, cậu ấy vừa mới đi tới trước cổng nhà tôi.

– Cái ô của cậu chẳng mấy chốc thì hỏng.

Có lẽ để chứng minh miệng tôi là miệng quạ đen, vừa dứt lời cán ô gãy luôn. Mặc dù bây giờ cậu ấy không đến nỗi ướt như chuột lột, nhưng tóc đã ướt sũng dính hết lên trán.

Tôi nhét áo mưa trong tay cho cậu ấy, không đợi cậu ấy nói gì đã xua tay chạy về nhà mình.

Tôi không có thời gian nói nhiều lời, cậu ấy không sợ dầm mưa nhưng tôi thì sợ.

Vào đến trong nhà tôi phát hiện chiếc ô trong tay mình cũng hỏng rồi, làm người tốt còn mất luôn cả một cái ô, đúng là thiệt.

Tôi ném thẳng chiếc ô hỏng vào thùng rác, sau đó đến trước cửa sổ nhìn, chợt phát hiện cậu ấy đã đi mất rồi.

Một tia chớp lóe lên phía chân trời.

Tôi lau khô cánh tay ướt mưa, quay về bên cạnh sofa, rót thêm cho mình một chén rượu nữa. Sau đó nhìn thấy tập thơ sáng nay tôi thuận tay quăng trên sofa trước lúc ra khỏi nhà, tên của nó rất hợp với cảnh lúc này – “Những tia chớp đó chỉ hướng về em”.