Mộ Vân Thâm

Chương 24



Hắn tỉnh rất sớm, song người bên cạnh đã rời đi. Hắn nằm thẳng, nhìn chằm chằm vào đỉnh lều bất động, dùng cơn đau còn sót lại để nhắc nhở bản thân rằng đêm qua không phải là mơ.

Nếu là mơ thì tốt, chuyện đến nước này hắn chẳng biết phải kết thúc nó như thế nào.

Lần sau gặp lại, chắc là…

“Đang nghĩ gì vậy?” Không khí lạnh lùa vào từ lá cờ tàn bị vén lên.

Dục Thanh căng thẳng đến mức ngừng thở, lúng túng nhìn Phương Đỗ Nhược.

Phương Đỗ Nhược hơi khó hiểu, sau đó cúi đầu mỉm cười, quỳ xuống nói nhỏ bên tai hắn: “Ta sắp chết rồi còn không chịu nhận là không được?”

Khuôn mặt Dục Thanh đỏ bừng, hắn nhắm mắt lại, cắn chặt môi.

“Ngài biết ở Thổ Phiên có núi Phổ Đà không?” Im lặng một hồi, y khẽ hỏi bên tai hắn.

Dục Thanh gật đầu.

“Cung điện Potala trên núi ấy là pháp tọa của Quan Thế Âm Bồ Tát, có tượng Bồ Tát bằng vàng, bảo tượng trang nghiêm, dung mạo tinh nhã như chân thân của Bồ Tát hiện ra.”

Dục Thanh mở mắt rồi quay đầu lại nhìn y.

“Mỗi ngày tôi đều tham Phật, tụng kinh trước mặt Bồ Tát, ngài đoán xem tôi tham ngộ được điều gì?”

Dục Thanh lắc đầu.

“Tôi ngộ ra rằng mình có dùng cả đời này cũng không thể đắc đạo, không thể trở thành Phật.” Ngón tay Phương Đỗ Nhược từ tốn lướt trên hàng lông mày của Dục Thanh, lòng bàn tay vuốt ve khuôn mặt hắn.

“… Tại sao?”

“Quan Thế Âm Bồ Tát ấy rất giống ngài, không chỉ là Bồ Tát, mấy ngàn pho tượng Phật trong Phật đường ấy cũng đều khiến tôi cảm thấy giống ngài.”

Tam thế tam thiên Phật, tất cả đều giống ngài, tôi còn có thể trốn đi đâu.

“Tôi đã đối diện với vô lượng Phật quốc trên núi Phổ Đà, lòng chỉ nghĩ đến ngài. Không giây khắc nào tôi không nghĩ về ngài, trần duyên sâu dày như thế, làm sao thành Phật?”

Dục Thanh dường như không nghe thấy lời y nói, chỉ đưa ngón tay vuốt ve từng giới ba trên trán y, “… Không biết giấc mơ này bao lâu sẽ phải tỉnh…”

Phương Đỗ Nhược cười, “Qua mười, hai mươi năm nữa, ngài sẽ biết có phải là mơ không.”

Dục Thanh bá cổ y, ôm y thật chặt.

Hai ngày sau, Dục Thanh có thể xuống đất đi lại liền gọi Phương Đỗ Nhược dìu mình ra khỏi trướng đi tuần doanh. Trải qua trận chiến trong hẻm núi, Hán binh tổn thất sáu ngàn quân, chỉ còn lại không đến một nghìn kỵ binh dưới trướng Hà Trừng Lâm, hơn nữa Phương Đỗ Nhược mang ba trăm tay súng đạn nổ từ Thổ Phiên đến, xây tuyết làm tường cố thủ năm ngày ở một nơi cách cửa cốc không xa. Các sĩ binh thấy chủ soái hồi phục, dù thân giữa hiểm cảnh cũng đều lộ vẻ vui mừng, Hà Trừng Lâm dẫn đám phó tướng tham lĩnh bước lên vấn lễ, nhắc tới thảm trạng trong cốc, tiếng nói đều nghẹn ở yết hầu. Dục Thanh vẫn chưa nói lời trấn an, chỉ bảo thuộc hạ: “Ai binh tất thắng*, bây giờ hán quân nhất định có thể đánh hạ vương thành Tây Thương.”

(Ai binh tất thắng: quân đội bị áp bức vùng lên mà chiến đấu thì nhất định sẽ chiến thắng.)

Các tướng sĩ nghe xong đều biến sắc, có mấy người buột miệng hỏi: “Điện hạ còn muốn…”

Hà Trừng Lâm tiếp lời: “Nếu không công thành, quân ta làm sao thoát khỏi vùng đất tuyết phủ này.”

Dục Thanh gật đầu, “Bây giờ trong quân đang thiếu lương thực, thiếu thuốc men, ngay cả dầu củi đốt lửa cũng sắp cạn kiệt. Hai ngày nay người Tây Thương đã từ bỏ tấn công, rõ ràng là họ muốn đợi chúng ta bị vây chết trên biển tuyết mênh mông này, lẽ nào chúng ta khoanh tay chịu chết sao?”

Lời tuy nói vậy nhưng các tướng nhớ lại sự thảm bại mấy ngày trước, đều thấy con đường tương lai vô vọng.

Dục Thanh đảo mắt qua đám đông, cất giọng, “Có được một bài học từ trận Thổ Dục Hồn trước đây, lần này gọi các binh sĩ cõng hơn nửa quân lương lên người, mặc dù trước mắt đã mất đồ tiếp tế nhưng người cũng không đến nỗi chết đói, song cỏ khô cho ngựa thì không còn nữa, vẫn cần chia trác từ khẩu phần lương thực, kể cả có giết ngựa để ăn thì cũng không có lửa nấu thịt. Như vậy, cho dù là quay lại đường cũ trở về, hay xuôi nam vào đất Thổ Phiên, cho dù bỏ ngựa hay giữ ngựa, toàn quân đều sẽ chết đói ở giữa đồng tuyết này, nếu muốn sống sốt, chỉ có thể lấy công làm thủ, cướp lương thực của địch.”

Tham tướng phụ trách cần vụ trong doanh lúc này nhìn đồng liêu bên cạnh rồi gật đầu.

Có tiếng thảo luận nhỏ vang lên giữa các tướng lĩnh.

“Hơn nữa, nơi này cách vương thành không xa. Trinh thám theo dõi binh đội đột kích của Tây Thương đã tìm được vị trí chính xác của vương thành, từ giờ quân ta không cần phải đi theo lời người dẫn đường của Tây Thương nữa, con đường phía trước là vùng đất bằng phẳng, mối lo bị phục kích không còn. Nghĩ đến các triều đại Tây Thương đều ỷ vào nơi hiểm yếu trong hẻm núi, lơ là việc phòng thủ kinh đô nên tường thành xây rất thấp và toàn đắp bằng đất. Trong chỗ súng đạn Phương Đỗ Nhược mang đến từ Thổ Phiên, viên đạn mạnh nhất to bằng nắm tay, một khi bóp cò là bắn được mười lăm phát liên tiếp, thành đất sẽ rã ra. Chúng ta toàn lực tiến công, chỉ cần có thể đục thủng một lỗ trên tường thành, tử chiến đến cùng với những binh sĩ lang hổ quen thói tiên phong này, vương thành có thể đánh hạ.”

Mấy ngày nay tử thủ doanh địa chỉ toàn bằng sự lợi hại của súng đạn nổ, những tướng sĩ còn sót lại đều là tinh binh, nói vậy, quả thực chiến cuộc có cơ hội xoay chuyển. Các tướng lĩnh nghe xong lời Dục Thanh, vẻ uể oải đều tiêu tan, trong mắt ngời ngời tinh thần dũng mãnh.

Dục Thanh tùy mặt gửi lời, lát sau mới nói, “Lần trước thất bại, một là binh sĩ chưa quen chiến đấu trong tuyết, hai là chủ soái khinh suất, thiếu quyết đoán, sau này chiến thắng trở về, Dục Thanh nhất định sẽ tạ tội với phụ hoàng, cho những tướng sĩ tử trận một câu trả lời. Nhưng lúc này, Dục Thanh được trời cao che chở, đại nạn không chết, chỉ mong lại lần nữa được cầm chắc ấn soái, dùng tuyết rửa sạch mối nhục trước đây, cái gọi là thắng bại vô thường, biết tủi hổ mà thêm can đảm, không biết chư vị có bằng lòng theo gót?”

Các tướng sĩ đồng thanh đáp lại, Dục Thanh chắp tay về phía mọi người song chữ tạ ơn chưa từng nói ra lời.

“Đã vậy, hôm nay chúng ta sẽ tập trung chấn chỉnh đại quân, chuẩn bị tấn công. Nếu đêm nay tuyết ngừng, trăng sáng, tiện bề đêm đến nghỉ ngơi một tiếng, rồi toàn quân khẩn trương tập kích bất ngờ vương thành Tây Thương. Các ngươi lui xuống dưới chuẩn bị việc của mình, sau đó giảng giải lại bản ý của ta với cấp dưới.”

Hà Trừng Lâm nói xen vào: “Trông sức khỏe điện hạ, hay là nghỉ thêm mấy ngày?”

Dục Thanh lắc đầu, “Bây giờ không còn đường sống để mà trì hoãn nữa. Chọn mấy con ngựa tốt, cho đội kỵ binh buộc một thương binh còn sức đi theo vào ngựa rồi đưa đi cùng.” Hắn cho Hà Trừng Lâm một ánh mắt rồi nuốt nửa câu sau vào bụng.

Hà Trừng Lâm gật đầu nghe lệnh. Các tướng quân giải tán, Dục Thanh nhờ Phương Đỗ Nhược đỡ hắn đi về phía hẻm núi phía sau doanh trại, Hà Trừng Lâm vốn định đi theo, Dục Thanh nói với gã: “Thời gian không còn sớm, ngươi đi làm tốt việc của mình là được.”

Hà Trừng Lâm thoáng ngây người, nhận ra Dục Thanh muốn đưa Phương Đỗ Nhược đi nơi khác để quân doanh xử lí nốt thương binh, thế nên gọi hai thân binh đứng xa xa theo sau hắn, còn mình thì xuống thu xếp. Lúc này Tiểu Canh thấy Dục Thanh với Phương Đỗ Nhược lâu không về trại, cũng theo ra ngoài, nhìn thấy họ muốn đi về phía đất tuyết, liền chạy tới phủ thêm lá cờ dày cộm màu đỏ thẫm lên người Dục Thanh. Dục Thanh gạt xuống trả lại cho gã, song Phương Đỗ Nhược đã nhận cờ từ tay Tiểu Canh, choàng lại lên người hắn.

“Ngài để tôi bớt lo đi, bây giờ tôi thật sự không tìm ra thứ gì khác choàng thêm cho ngài.”

Dục Thanh không nói gì nữa. Tiểu Canh nhìn thoáng qua Phương Đỗ Nhược, dâng áo khoác vải bông lên cho y.

“Thương binh này…”

“Vừa rồi gã đã chết. Điện hạ và chủ tử đi sớm về sớm.” Tiểu Canh nói đoạn quay người trở về, Phương Đỗ Nhược khoác áo choàng lên người, nắm chặt vạt áo rồi thẫn thờ. Dục Thanh dắt y đi ra đằng sau doanh trại, vừa đi vừa hỏi: “Đang niệm Pháp Hoa kinh à?”

Phương Đỗ Nhược lắc đầu.

“Khi đó ta bị mắc kẹt trong tuyết, thần trí không minh mẫn, nghe ngươi đọc kinh văn mới tỉnh lại, mới nhìn thấy ánh sáng của súng đạn.”

Phương Đỗ Nhược quay đầu lại, kinh ngạc nhìn hắn.

“Lời kinh ngươi tụng thật là linh nghiệm. Lát nữa hãy tụng mấy lần cho những vong hồn trong cốc, siêu độ họ nhắm mắt vãng sinh.”

Phương Đỗ Nhược không trả lời.

Dục Thanh nói tiếp: “Những khẩu súng lửa mà Thổ Phiên tiến cống trước đây chỉ hợp để săn chim chứ không thể dùng để chiến đấu, song bây giờ chúng có sức mạnh khủng khiếp, đây là thành quả của ngươi à?”

Phương Đỗ Nhược gật đầu, “Hồi trước khi còn ở kinh thành, nhìn thấy súng đạn nổ của Thổ Phiên thì tôi đã có ý tưởng cải tiến chúng, nhưng kỹ thuật rèn và gia công kim loại ở nước ta không đáp ứng được nhu cầu. Lần này đến Thổ Phiên thấy thợ rèn của họ khéo léo tài tình liền kìm lòng không đặng dâng thư cho vua Thổ Phiên, lấy việc chia đôi thành quả cho hai nước làm thù lao, nhờ gã triệu tập một nhóm thợ rèn và thợ mộc, tôi vẽ thử, sau mấy bận điều chỉnh thì làm ra kiểu dáng này. Kĩ thuật luyện sắt với chế tạo đã được tôi biên soạn thành văn bản, sau này hồi kinh sẽ trình lên hoàng thượng, để Công bộ cũng có thể chế tạo được.”

Dục Thanh quay đầu lại nhìn y, “Đây là chuyện vui, sao ngươi lại như vậy lo lắng?”

Phương Đỗ Nhược vẫn nhìn tuyết trắng trước mặt, “Người nhà binh cũng là hung khí giết người. Vua Thổ Phiên bằng lòng dấy binh vào Tây Thương chủ yếu là để thử súng. Tôi đã tận mắt chứng kiến những người đứng xa hơn mười trượng bị trúng ​​đạn, não họ vỡ tan, máu thịt tung tóe, vật như vậy lại xuất phát từ tay tôi, xuống huyết trì địa ngục cũng khó lòng chuộc hết tội này.”

Dục Thanh lắc đầu, kéo vai Phương Đỗ Nhược để y quay lại nhìn mình, “Hai nước Thổ Phiên với Tây Thương là kẻ thù truyền kiếp, mặc dù không có những thứ như súng đạn nổ, Thổ Phiên vương vẫn sẽ phái binh tới giết người Tây Thương. Huống chi, trên chiến trường, giết địch là tự cứu lấy thân, ngươi không giết chúng, chúng sẽ giết ngươi. Nếu vậy cũng bị coi thành tội, vậy thì Bồ Tát đúng là vô lý!”

“Thổ Phiên vương vốn chỉ định chờ xem, nhưng nếu tôi không lên tiếng xúi giục, viện lý do thử súng thì Thổ Phiên cũng sẽ không phái binh đi.”

“Nếu những tay súng lửa Thổ Phiên này không tới, có lẽ quân Hán đã bị diệt sạch. Ngươi đem binh tới đây là để cứu người, có lỗi lầm gì!”

“Dục Thanh.” Phương Đỗ Nhược mỉm cười, “Có sai hay không, có tội hay vô tội, lòng chúng ta đều tự biết. Tôi không hối hận là được.”

Dục Thanh nhìn y, đôi mắt có ánh nước.

Ngay trước mặt bọn họ, dãy núi tuyết Cốt Hạc hiện ra dưới bầu trời xanh, ánh nắng chiếu vào ngọn núi đầy tuyết phủ, màu trắng tinh khôi trải dài miên man. Thâm cốc chọc xuyên qua các đỉnh núi, cứa dọc như vết dao.

Dưới lớp băng tuyết im lìm ấy mai táng gần mười ngàn người. Không chỉ là Hán binh, lúc đầu bão tuyết chôn vùi hầm ngầm được xây dưới tuyết ở hai bên sườn dốc, quân phòng thủ Tây Thương chẳng ai may mắn tránh khỏi.

Vong hồn đầy rẫy.

“Ngài có biết tôi đang lo lắng điều gì không?” Phương Đỗ Nhược nhìn mặt tuyết hôm nay vẫn bằng phẳng như thuở đầu.

Dục Thanh lắc đầu.

“Ngài nói xem, trong tương lai, có khi nào những khẩu súng này sẽ được dùng để giết những người vô tội, những người chẳng có lỗi lầm gì?”

“Sao lại nói vậy?”

“Thổ Dục Hồn dám xâm phạm nước ta là vì ỷ vào quân đội hùng mạnh; Tây Thương tiến quân xâm chiếm Lâu Lan cũng cậy lẽ đó. Nếu quân đội nước ta được trang bị súng lửa quy mô lớn, có khi nào lại dựa vào binh lực hùng mạnh ấy mà xâm lược nước khác không?”

“Ta không thể quản được con cháu đời sau, nhưng tam ca không phải là kẻ hiếu chiến.”

Nhận ra ẩn ý trong lời nói của Dục Thanh, Phương Đỗ Nhược quay đầu lại nhìn hắn, không nói nên lời.

Dục Thanh khoác chặt lá cờ tàn màu đỏ thẫm trên người, đi vài bước về phía tuyết sơn.

“Ta biết phụ hoàng sẽ truyền ngôi cho ta. Nhưng chỉ cần trận này chiến thắng, chúng ta có thể cùng nhau trở về, ta đạt được ngôi vị rồi sẽ nhường lại cho tam ca, rồi chúng ta tìm một chỗ thanh tịnh, ẩn cư tránh việc đời, ngươi thổi sáo trúc của ngươi, ta sẽ câu cá của ta, ngươi nói có được không?”

Phương Đỗ Nhược nhìn theo bóng lưng hắn, chẳng thốt nên lời.

“Ngươi thích thanh tịnh, nếu cứ ở lại kinh thành, dù ta có trở thành một vị vua nhàn hạ, ngươi vẫn sẽ kẹt giữa sự vụ triều đình với chuyện trong thiên hạ, thật chẳng vui vẻ gì. Sau khi Tô Cẩn Khiêm chết, ta không còn nghe thấy ngươi thổi sáo nữa, sau này ngươi muốn thổi bao lâu cũng được, ta sẽ không chê ngươi ồn ào đâu. Thực ra nếu ngươi chỉ thổi cho mình ta nghe thì ta rất thích…”

“Vậy thì không thể tốt hơn được, Dục Thanh à.”

Dục Thanh quay lưng về phía Phương Đỗ Nhược, đối mặt với ngọn núi tuyết phủ, nhưng y có thể cảm nhận được nụ cười khẽ hiện trên khuôn mặt hắn.

“Chỉ cần qua được trận này, một trận chiến cuối cùng.”

Mái tóc khoác trên nền gấm đỏ rực bay trong gió lạnh, tuyết phản chiếu chúng thành màu vàng sẫm rực rỡ.

“Ngươi có tin không, ta đánh trận cuối cùng này, không phải vì quân công, không phải vì rửa nhục, thậm chí không phải vì cầu sinh. Ta chỉ muốn để Tề Lăng, để những tướng sĩ vùi thây trong hẻm núi này không chết một cách vô ích.”

Phương Đỗ Nhược cúi đầu. Oan oan tương báo đến bao giờ.

Nhưng y không có tư cách nói lời này, nếu như ngày đó ngài chết trong cốc, sao tôi lại không muốn báo thù cho ngài.

Cải tiến súng đạn, giục binh giết người. Phá giới sát sinh.

Xúi giục châm ngòi, ly gián hai nước. Phá giới nói dối.

Phá hủy đô thành, trộm đất của người. Phá giới trộm cắp.

Phật tổ trên cao, vài ngày nữa, đệ tử sẽ phá hết ngũ giới, trong lòng biết đã mất tư cách đi về miền Cực Lạc.

Chỉ xin ngã Phật từ bi, để thân thể ô uế của đệ tử thay người này gánh hết kiếp nạn, mặc dù sau khi chết đời đời đọa dưới Tu La khổ đạo, đệ tử cũng không oán không hối hận.

Người y nhìn chăm chú lúc này đang quỳ ngập hai đầu gối trong tuyết.

Ngoài trừ kính trời, lễ cha, đây là lần đầu tiên hắn quỳ gối trong đời.

“Hơn sáu nghìn binh sĩ táng thân nơi này, Mục Dục Thanh ta xin thề với trời, nhất định sẽ dùng cánh cửa vương thành Tây Thương chạm thành bia mộ cho các ngươi…”