[Oneshot Series] Ngư Thúc Quái Đàm

Chương 16: Gương Cổ (P2)



*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Bởi vì định hướng của điện ảnh và dư luận, đã có rất nhiều người thành kiến đối với con cháu của các thế gia đại tộc, luôn cảm thấy những người đó là ngu xuẩn xấu xa.

Chúng ta phân tích khách quan một chút, các gia tộc luôn có nền giáo dục, gia sự, kế thừa, cùng gia giáo tốt nhất, nghiêm khắc nhất, tại cái nơi được tổ tiên hun đúc từ nhỏ, nếu như muốn trở thành một người ngu xuẩn xấu xa thì thật sự là quá khó.

Có rất nhiều đứa trẻ hư của đời thứ hai, đa phần đều là con cái những các ông chủ doanh nghiệp tư nhân vừa khởi nghiệp, cha mẹ cũng không phải loại văn hóa gì, từ hoàn cảnh đó bồi dưỡng ra con cháu như vậy, có chút vấn đề cũng là chuyện thường tình thôi.

Đợi tới lúc những đứa trẻ này lớn lên, có tiền rồi cùng các đại tộc liên hôn, dùng phương thức của gia tộc bồi dưỡng đời sau của họ, thì con cháu đời sau này mới có thể tính là con cháu gia tộc lớn, cho nên vì sao người ta hay nói là phải nuôi dưỡng ba đời mới ra một quý tộc là vậy.

Thôi được rồi, lại bàn ra nữa rồi đó, chúng ta tiếp tục câu chuyện cái gương nhé.

Ngoài những quy tắc để nuôi dưỡng nhân tài của các đại gia tộc, họ cũng rất xem trọng phong thủy.

Rất nhiều người đều nói, càng có tiền, càng chú trọng phong thủy, cái này là sự thật.

Bạn đi thăm một nhà khởi nghiệp, hỏi họ làm sao tay trắng làm nên, họ cũng sẽ kể cho bạn nghe một đống chuyện lâm ly bi đát.

Nhưng sự thật là, khi họ uống quá chén, thì họ sẽ nói bạn cho bạn hay, bi đát cái rắm, đều là do vận may cả thôi!

Đúng vậy, là vận may, cũng là một mặt của thực lực, ở phương diện nào thì cũng quan trọng hơn cả chữ thực lực này.

Còn về việc làm sao để tăng vận may, vậy thì phải xem phong thủy như nào rồi.

Một gia tộc có thể kế thừa hàng trăm năm hay không thì phong thủy là quan trọng nhất.

Như gia đình họ Bạch đi, cha của anh ở Nam Tân Cương có từng nói với tôi về hoàn cảnh của gia đình anh.

Ông nói: “Tôi họ Bạch, là người Tô Châu, nhà tổ ở Giang Đông, Nghi Hưng. Từ triều đại nhà Thanh và nhà Minh bắt đầu, ở Giang Đông, Nghi Hưng đã nổi dậy bao nhiêu Giang Nam vọng tộc, như họ Chử, Tưởng, Nhậm, Trần, Ngô, Sử, Lục vân vân... Phu nhân nhà tôi thuộc quan lâm họ Tưởng, chứ không phải thuộc truyền thống vọng tộc ở Giang Đông, mà là từ Huệ Châu chuyển đến. Người Huệ Châu đặt nặng thi cử, gia tộc Tưởng Ngạc ở ngõ Đại Nhân, Cửa Nam Thành, huyện Nghi Hưng, thời nhà Thanh. Bà Tưởng Bích Vy, vợ cũ của Từ Bi Hồng (gia tộc của bà là một gia tộc có tiếng ở Nghi Hưng, tổ tiên là Hàm Đình Hầu thời nhà Hán), xuất thân từ một nhánh của họ.

Nhà của Trung Chính tiên sinh (Tưởng Giới Thạch), cũng là từ Nghi Hưng chuyển về Phụng Hóa được coi là nhất mạch tương truyền cùng chúng tôi, trước giờ vẫn qua lại với nhau. Sau này Trung Chính tiên sinh thu phục được bang Thanh Hồng ở Thượng Hải, về quê gây quỹ, cũng là chủ yếu do gia tộc chúng tôi ủng hộ.

Sau này, trước khi Trung Chính tiên sinh đi Đài Loan, chúng tôi cũng là người được biết tin trước, nguyên gia tộc đều chuyển đến Nam Dương.”

“Nhà tổ của chúng tôi, là một ngôi nhà lớn có lịch sử mấy trăm năm ở Tô Châu, nghe nói là lúc xây dựng ngôi nhà này có mười tám con hạc tiên bay vòng quanh ba vòng ở khuôn viên, cho nên lúc đấy được mọi người xưng là hoa viên Bạch phủ.”

Lúc đó ông Bạch rất thành khẩn, chân thật kể lại hoàn cảnh của gia tộc, nhưng có một thứ ông lại không nói.

Đó chính là, sự kiện bí ẩn lúc trùng tu nhà cổ của năm ấy.

Dựa theo lời Bạch công tử, đại gia tộc trùng tu nhà tổ, đó là một chuyện vô cùng quan trọng đối với gia tộc, không chỉ là mới đại sư phong thủy đến xem là xong đâu, phải tiết lộ bát tự, vận thế, các phương diện làm ăn của người quan trọng nhất trong gia tộc, cùng với khuynh hướng của thời đại, đều phải tổng hợp suy xét.

Ở trên phong thủy bảo địa xây dựng nhà tổ, ắt có dị tướng, như nhà của họ có “mười tám con tiên hạt vòng quanh sân nhà”, chính là dị tượng nổi tiếng của thời cổ đại.

Nhưng sau khi xây xong nhà tổ, còn một công đoạn quan trọng nhất, chính là ở dưới cơ địa của nhà tổ chôn xuống một cái gương cổ.

Chiếc gương cổ này, không chỉ đơn giản trấn áp ngôi nhà, cái quan trọng nhất đó là xác định phong thủy, là giữ chặt chữ “thế” trăm năm của gia tộc.

Có câu: Ba mươi năm Hà Đông, ba mươi năm Hà Tây, nói tới chính là chữ “thế” này.

Vậy chữ “thế” phải lý giải nó như thế nào?

Người Trung Quốc hay nói “thuận thế mà làm”, nói tới chính là sát thế hướng về phía trước, cái loại sát thế này, đều nói các đại tộc đều liều mạng muốn giữ vững sinh cơ của họ, sinh lực thịnh vượng, đem cái vận may đó giữ lại.

Chiếc gương cổ này, nó được dùng để định thế đó.

Có nên người xưa, nhất là các thế gia đại tộc, đối với chiếc gương cổ này luôn cuồng nhiệt theo đuổi, nó được lý giải theo nghĩa đó.

Tôi hỏi Bạch công tử: “Thế gương cổ thì cái nào là tốt nhất?”

Bạch công tử nghiêng mặt nói: “Vậy đương nhiên là thượng cổ mười hai tấm bảo gương rồi.”

Anh lại nói: “Thời kỳ cổ đại, Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu ở núi Côn Lôn tiến hành qua một lần mật đàm, còn cụ thể là nói về cái gì, trên cổ tập không có ghi chép lại.”

(Hoàng đế này là đế hoàng thời kỳ cổ đại xưa lắc xưa lơ luôn rồi nhé, vì tiếng việt chung một từ nên nói vậy cho dễ phân biệt nà.)

Nhưng theo ghi chép của <Hoàng Đế nội truyền>, sau khi thương nghị kết thúc, Hoàng Đế đã đúc ra mười hai tấm bảo gương. Tấm gương thứ nhất rộng một thước năm tấc, sau này mỗi gương đều cắt giảm đi một tấc, tới tấm gương thứ mười hai thì chỉ còn lại ba tấc thôi.

Vậy những tấm gương này để làm cái gì, chẳng ai biết được cả, nhưng mà Hoàng Đế rất xem trọng mười hai tấm gương này, thường hay đích thân đến bên hồ mài gương.

Có người nói, mười hai tấm gương cổ này ẩn giấu hiệp định bí mật của Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu, cũng có người nói, mười hai tấm gương này giấu đi bí mật to lớn của nhân loại, rồi có người lại nói, mười hai tấm gương này giấu đi bí kiếp thành tiên, cái này thì không ai xác định được rồi.

Nhưng sau này những tấm gương này đã bị thất lạc, đời sau chỉ từng xuất hiện qua vài tấm thôi.

Tấm gương cổ thứ nhất xuất hiện vào thời nhà Chu, Chu Linh Vương có một cung điện chuyên bày trí các bảo vật, gọi là “Côn Dương đài”.

Trong đó có những bảo bối sáng giá nhất, chính là cống phẩm của “Cừ Tư Quốc”, có lạc đà ngọc năm thước, hổ phách phụng hoàng sáu thước, còn có một chiếc “gương hỏa tề”.

Tấm gương này cao tận một thước năm tấc, nó sẽ sáng như ban ngày nếu bạn nhìn mọi đồ vật trong bóng tối, càng thần bí hơn là, bạn nhìn tấm gương đó nói chuyện, nó sẽ trả lời bạn, nghe nói là khẩu dụ của thần linh, được coi như bảo vật có thể giao tiếp với thần.

Vào cuối đời của Chu Linh Vương, bảo gương bị trộm mất, sau đó triều đại Tây Chu liền nhanh chóng sụp đổ.

Hậu nhân dựa theo kích thước của chiếc gương mà phán đoán sau này, có thể là một trong mười hai tấm gương đó, cũng là tấm gương lớn nhất. Còn về tấm gương làm sao mà bị “Cừ Tư Quốc” có được, khẩu dụ của thần linh lại là gì, vậy thì vẫn còn là dấu hỏi rất lớn đấy.

Tấm gương cổ thứ hai, là vật được Tần Thủy Hoàng yêu thích nhất.

Tấm gương này nếu soi nguyên người, có thể nhìn thấu được lục phủ ngũ tạng của họ, có chút hiện đại pha lẫn giữa cổ đại và ý nghĩa của thời gian.

Năm đó Tần Thủy Hoàng triệu kiến các đại thần, một bên tra hỏi, một bên dùng tấm gương này soi người, nếu như soi được những ai tim đập loạn xạ, thì sẽ biết là người hay là ma, lúc đó liền có thể lôi xuống giết chết.

Đấy, bạn có thấy không, tố chất tâm lý vốn không tốt đẹp gì, vẫn là không thấy hợp làm quan thời nhà Tần.

Sau này triều đại nhà Tần sụp đổ, tấm gương này cũng không biết lưu lạc về đâu, Hạng Vũ và Lưu Ban cũng tìm qua, vẫn là không thể tìm ra được.

Nhưng vào thời nhà Đường, tấm gương đó lại một lần nữa xuất hiện.

Lúc đó một ngư dân đang đánh cá ở sông Tần Hoài, vớt được tấm gương cổ đó, dài tầm một thước, tấm gương này phản chiếu những tia sáng rực rỡ dưới sông, tia sáng cùng sóng nước hòa lẫn vào nhau, rất là thần kỳ.

Vị ngư dân đó bưng tấm gương lên nhìn, nhưng lại nhìn thấy được lục phủ ngũ tạng của mình, dọa ông một phen, cứ tường là mình gặp ma rồi, lại đem nó vứt xuống sông.

Sau nay lên báo cho triều đình, mới biết trên đời này có tấm bảo gương cổ diện thế, hoàng đế lập tức triệu tập hơn cả ngàn dân chúng, trăm phương ngàn kế tìm cách để vớt nó lên nhưng lại chẳng có kết quả gì.

Nghe đồn là cho đến giờ nó vẫn chìm ở dưới đáy sông Tần Hoài, vì tấm gương cổ này tà khí quá nặng, ở sông Tần Hoài tích lũy biết bao nhiêu ám khí, sau này ở thành Kim Lăng xảy ra rất nhiều chuyện quái dị, muốn trấn áp lại cũng chẳng được.

Tấm gương bảo thứ ba, là một tấm gương thanh kim, xuất hiện tại thời nhà Hán.

Vua Hán Vũ vì nó mà xây dựng một tòa Vọng Thiền các, cao mười hai trượng, phía trên đặt tấm gương này. Nó dùng để đuổi tà, phàm là có những thứ tà ma không sạch sẽ ngang qua, bị gương chiếu một phát, ngay lập tức sẽ hiện nguyên hình, hoặc là chết ngay tại chỗ, đây gọi là hàng yêu đấy.

Tấm bảo gương thứ tư xuất hiện ở thời nhà Tùy, bị ngự sử Vương Độ thời đó sưu tầm rồi.

Tấm gương đó rộng tám tấc, mũi kính là một con kỳ lân đang ngồi đó, viền kính được chia làm quy, long, phụng, hổ bốn vị trí, bốn phương đều bố trí thêm bát quái, bát quái lại có thêm mười hai canh giờ, ngoài ra còn thêm vào hai mươi bốn chữ, xoay vòng quanh kính, phong cách cổ điển bất phàm.

Dựa theo kích thước phán đoán, đây là tấm gương cổ thứ tám trong mười hai tấm gương.

Vậy tấm gương cổ này lại có chỗ nào thần kỳ đây?

Vương Độ nói: “Tấm gương cổ này nếu đặt ở trong một căn phòng tối mịt, ngay lập tức nó sẽ sáng rực lên, có thể cùng trời trăng tranh giành ánh sáng.

Ông có một người bạn, tên là Tiết Hiệp, sở hữu một cây bảo kiếm trong truyền thuyết, bên trái có hình như hỏa diệm, bên phải có hình như sóng nước, dưới ánh sáng mặt trời, lấp lóe sinh động, chói mắt cực kỳ.

Hắn nghe được Vương Độ có được bảo gương, có chút không phục, muốn lấy bảo kiếm của mình để so tài cùng Vương Độ.

Bọn họ cầm những bảo vật khác nhau, bước vào một căn phòng tối mịt, Vương Độ lấy ra bảo gương, mặt gương liền chiếu ra những tia sáng mãnh liệt, còn cây bảo kiểm thì không hề phát sáng.

Nhưng tấm bảo gương này có một đặc điểm tuyệt đối không được để dưới ánh sáng của trời trăng, chỉ cần gặp phải thì không phát sáng được nữa.

Vậy cái gương cổ này thật ra là để làm gì?

Theo cao nhân phân tích, đây là để trấn áp tà linh ma quái ở dưới lòng đất, có một vài thân núi bị nứt hoặc hố đen ma động có yêu ma tác quái, thì đem theo cái gương cổ này xuống dưới sẽ ngay lập tức diệt trừ được.

Cho nên trước giờ, tấm gương cổ này đều là khát vọng của những người đạo mộ, muốn có mà không được, ở hậu thế làm ra biết bao nhiêu vật mô phỏng, đó cũng là lý do khiến cho những người đạo mộ đem theo bên mình một chiếc gương đồng khi đi vào cổ mộ là vậy.

Bạch công tử nói xong, liền cảm khái một hơi, nói rằng câu chuyện liên quan đến mười hai tấm gương cổ, trên sử sách ghi chép, là thật sự đáng tin đấy, chỉ xuất hiện qua bốn tấm gương này thôi.

Tôi hỏi: “Vậy những tấm gương khác dùng để làm gì nhỉ?”

Bạch công tử nói: “Tuy rằng tám tấm gương khác chưa có định luận, nhưng mọi người đoán rằng, mỗi một tấm gương cổ đều có những đặc điểm khác nhau, có tấm chiếu yêu, có tấm giết quỷ, có tấm thông thần, có tấm biện nhân, những tấm gương kia chắc cũng thuộc các loại này, chắc là sẽ có tấm tăng vận, có tấm có thể tìm bảo vật, có tấm có thể giết người chẳng hạn.”

Tôi nhịn không được liền hỏi: “Tấm gương thứ nhất có thể thông thần, có phải là tấm lợi hại nhất không?”

Bạch công tử lắc đầu: “Tư duy của người xưa nó khác với người hiện đại bây giờ, không phải càng lớn thì càng tốt mà là ngược lại. Cậu không xem qua anh em hồ lô sao? Người lợi hại nhất chính Thất oa.”

Tôi liền hỏi anh: “Vậy mười hai oa cổ gương nó có hình dáng gì thế?”

Bạch công tử không đáp lời, ngược lại dùng ánh mắt quái dị đó nhìn tôi, nói: “Cậu từng gặp qua cha tôi đúng không?”

Tôi gật gật đầu: “Gặp qua rồi!”

Anh nói tiếp: “Anh không cảm thấy rằng, cha tôi đối xử với cậu quá tốt sao?”

Ngẫm lại cũng phải, tôi là một trai tráng phiêu bạc, thiếu niên ngông cuồng, ở Nam Tân Cương gặp qua ông, ông không chỉ rất khách khí đối với tôi, dùng cái tách mấy tỷ để mời tôi uống trà, thành khẩn kể chi tiết cho tôi nghe về gia tộc của họ, cũng cùng tôi kết bạn, đích thực là hơi lố một chút.

Tôi dùng ánh mắt để hỏi anh ta, không lẽ bên trong lại có ẩn tình gì sao?

Bạch công tử thở dài một hơi, nói: “Anh cũng xem nhẹ đại gia tộc của chúng tôi quá, loại người như cha tôi, từ nhỏ đã chịu sự nghiêm ngặt của gia tộc, làm sao có thể bị một con hồ yêu câu dẫn rồi bỏ nhà đi đến tận Nam Tân Cương? Dù cho ông tự nguyện buông bỏ tất cả, tổ tông gia pháp cũng không thể tha cho ông đâu, dựa theo tổ huấn của chúng tôi, rời kinh phản đạo sẽ bị đánh cho tới chết ngay tại từ đường đấy!!

Tôi lại hỏi: “Vậy là vì sao chứ? Không lẽ lệnh tôn cảm thấy tương lai tôi ắt sẽ là một binh khí tuyệt vời, sau này có thể đề bạt cậu??”

Bạch công tử nhịn không được phun hết ngụm trà trong miệng ra, nói: “Loại người vô sỉ mặt dày a, thì tôi thấy nhiều rồi, nhưng cái kiểu thản nhiên chấp nhận như anh thì đây là lần đầu tiên tôi gặp đấy!!!”

Tôi cười ha hả.

(Chú Ngư mắc chứng hoang tưởng hồi nào không biết luôn đó  )

Bạch công tử lại quay về chuyện của gương cổ, anh nói là tấm gương cuối cùng, anh thật sự đã thấy qua, bởi tấm gương đó nó tọa lạc ngay một tòa đạo quán ngàn năm, bí mật bảo tồn hơn mấy trăm năm rồi. Gia đình anh là thế gia đại tộc ở Tô Châu, cũng là do tình cờ mới biết được bí mật này thôi.

Nhưng mà chủ nhiệm đạo quán nói qua: “Đây là đồ vật của người ta, bọn họ chỉ là thay thế bảo quản, sau này ắt sẽ có người đến lấy, căn bản là không để ai thấy được.

Tôi lại được một phen hoảng hốt: “Gì chứ? Ba cái thứ này, còn có người đặt trước mấy trăm năm à??”

Bạch công tử gật đầu: “Bởi vì phúc duyên của tấm gương này quá lớn, còn liên lụy đến một chút thiên cơ, người phàm đừng nói là muốn sở hữu nó, chỉ cần nhìn nó một mắt thôi cũng sẽ bị tổn thọ. Cho nên dù cho ở đạo quán, đây cũng là một bí mật cực lớn, chỉ có mỗi một chủ nhiệm rời đi, mới tiết lộ cho chủ nhiệm sau biết.

Tôi nhịn không được lại nói: “Thật không ngờ là đạo quán đó lại có bảo vật như này, chuyện không thể chậm trễ, chúng ta nhanh chóng đi tham quan một chuyến, nói không chừng bảo vật đó đang đợi tôi thì sao!!”

Bạch công tử không nhịn được cười liền đáp: “Cậu biết tấm gương đó có hình dáng gì sao?”

Tôi hỏi: “Hình dáng gì cơ? Lợi hại như nào thì cũng chẳng qua là một tấm gương đồng mà thôi!”

Bạch công tử liền đáp: “Đúng thật không phải là gương đồng, là một tấm gương làm bằng ngọc bích quý hiếm dài ba tấc, nghe nói nó được mài từ xương trán của Thiên Tôn đấy.”

Tôi hỏi tiếp: “Vậy họ làm sao phán đoán được ai mới là chủ nhân thật sự của tấm gương đó?”

Anh đáp: “Đó là xương trán của Thiên Tôn, đương nhiên là chỉ có Thiên Tôn mới có thể lấy được. Các bảo vật thần thánh này tự biết nhận chủ, với lại mấy năm trước đã có người đến đem đi rồi.”

Tôi hoảng hốt: “Không lẽ Thiên Tôn giáng thế ư?”

Bạch công tử gật đầu: “Mà người này, tôi và cậu đều đã gặp qua rồi.”

Tôi giật mình, không lẽ anh nói đến Mã đạo trưởng?

Nhưng mà Mã đạo trưởng là người có khả năng thành tiên nhất, nếu như đã thành tiên rồi, thì cũng kém xa với Thiên Tôn mười ngàn tám trăm dặm đi.

Bạch công tử lại nói: “Tôi có từng kể cho anh nghe, ba năm trước, ở phố Quan Tiền, tôi có gặp một vị cô nương, cô ấy nhờ tôi chuyển lời cho anh không?

Sắc mặt tôi tái mét, gật đầu lia lịa: “Vu Sinh Nhất.”

Bạch công tử tiếp lời: “Lúc đó cô ấy nói rằng, phải đến đạo quán lấy lại một vật đang được giữ ở đấy mấy trăm năm.”

Tôi: "..."

Bạch công tử cảm khái: “Cha tôi đi Nam Tân Cương, cũng chính vì cô ấy. Chuyện của gia đình tôi, chắc cậu cũng đã rõ, tổ tiên tôi lúc trước từng cứu một dị nhân nửa tiên nửa quỷ trong Hoàng Hà đại đỉnh, sau này đến Nam Dương khởi nghiệp, mới cùng mẹ tôi nhất trí liên hôn, trở thành thế gia chân chính.”

Dị nhân từng nói: “Sở dĩ ông chỉ dẫn chúng tôi, là bởi ông bói toán được hậu nhân của nhà tôi sẽ có một chút tiên duyên.”

Cái tiên duyên này, có thể là phải hơn ngàn năm mới xuất hiện một lần, tới lúc đó mọi cao nhân ẩn thế, lão quái vật, bán tiên, ác quỷ đều sẽ hiện thế, tất nhiên là ông cũng sẽ xuất hiện. Ông chỉ dẫn cho tổ tiên tôi, cũng là kết một mối thiện duyên, trên đường thành tiên, có thể sẽ có lúc cầu cứu đến nhà chúng tôi.

Ông còn để lại một câu nói, chính là một chút tiên duyên đó, đều ở trong câu nói này.

Tôi vội vàng hỏi: “Câu gì vậy?”

Anh đáp: “Trời sinh tiên thai, tay giữ tiên cảnh, trấn bạch ngọc kinh, khai thành tiên đạo, Côn Lôn động quỷ khai, vạn phật triều thánh lai, một sợi tiên trần, kê khuyển thăng thiên.”

(Trời sinh vốn đã là cái thai của tiên giới, tay giữ gương tiên, trấn giữ kinh Bạch Ngọc, sau đó khai thông con đường tiên giới. Khi động quỷ của Côn Lôn mở, thì vạn phật sẽ xuất hiện, chỉ một tí bụi trần tiên giới thì gà chó cũng được lên trời)