[Oneshot Series] Ngư Thúc Quái Đàm

Chương 80: Miếu Xưa



Câu chuyện hôm nay kể về chùa chiền.

Đó không phải một toà cổ tự ngàn năm đại danh đỉnh đỉnh, chỉ là một ngôi miếu bình thường trong một thôn nhỏ ở miền Bắc Trung Quốc, không có danh khí gì, cũng chẳng được mấy người biết đến.

Nếu như sau này không xảy ra một chuyện vô cùng quỷ dị, đoán chừng căn bản không có người nhớ rõ nó.

Chúng ta đều đã quên nó.

Nhưng nó vẫn yên lặng bảo hộ chúng ta, cho đến tận khi sụp đổ.

Câu chuyện này, tôi được kể khi tới thăm một ngôi chùa ở Tô Châu.

Ngôi chùa có tên Văn Thù tự, cũng là một ngôi chùa cổ ngàn năm, mì ở đây ăn ngon lắm.

Ăn một tô mì, cất bước đi theo thềm đá lên đến đỉnh núi, uống chút trà bên đại điện, ngắm cảnh núi về đêm, cũng thêm mấy phần hứng khởi.

Đại điện Văn Thù tự, đối diện có một vách núi, vách núi này được gọi là "Xá Sinh Đài", tĩnh mịch quỷ dị, bên cạnh dựng một tấm biển: CẤM THẮP HƯƠNG.

Tôi thấy hơi kỳ quái, sao lại không cho phép thắp hương?

Bên cạnh có một cư sĩ đi tới, giải thích với tôi, nói vách núi này được gọi là "Xá Sinh Đài", bởi vì hay có người tự tử nhảy từ đây xuống, âm khí nặng, cho nên đại điện mới đặt đúng nơi đây, để trấn áp tà khí.

Tôi gật gật đầu, nói phải, thật nhiều người đều cho rằng chùa chiền phải xây ở nơi phong thuỷ bảo địa, kỳ thật rất nhiều nhiều ngôi chùa ban đầu cũng là để trấn tà, dần dà, hung địa ngược lại trở thành bảo địa.

Lão cư sĩ liên tục gật đầu tán đồng, bảo tôi nói rất đúng, chỉ cần có Phật tâm, khắp nơi đều là chân nghĩa, lập ở nơi nào cũng được hết.

Tôi thấy ông có ý, liền mời ông uống chung trà, kết quả lại nghe được một câu chuyện thú vị.

Lão cư sĩ này là người Dịch huyện, Bảo Định, Dịch huyện gần nhất có một "KOL" (KOL - viết tắt của cụm từ Key opinion leader - hiểu nôm na đây là một nơi có sức ảnh hưởng lớn với người dân), là một ngôi miếu ở địa phương.

Thần Phật được cung phụng trong miếu đều do thôn dân tự làm, như họ nói chính là, thiếu cái gì, bọn họ liền tự làm cái đó, thiên hình vạn trạng, Phật đạo không phân, ngay cả chúa Jesus cũng có cung phụng.

Toàn bộ ngôi miếu đều do thôn dân nhận thầu, hàng năm quyên góp đến mấy ngàn vạn.

Tôi hỏi về ngôi miếu thần kỳ ấy, không ngờ ông lại lắc đầu, bảo, trước kia ngôi miếu này linh nghiệm lắm, Phật đạo chi địa, không thể bất kính.

Ông kể cho tôi nghe một câu chuyện.

Ông nói, trước kia ông là một giáo viên, làm đến chức Hiệu trưởng xong là về hưu, cùng con trai đến Tô Châu dưỡng lão.

Trường học năm đó của ông được cải biến từ một ngôi miếu, vào thời Cách mạng Văn hóa, chùa miếu bị phá huỷ, không ít trong số đó trở thành trường học.

Bởi vì miếu rất nhỏ, cho nên trường tiểu học cũng chẳng rộng rãi đến đâu, ngay cả sân vận động cũng không có, mấy gian tăng phòng chính là phòng học, treo chiếc kẻng trên cây hồ đào lâu năm, dùng gậy sắt gõ mấy cái làm chuông vào học.

Về sau, mấy gian tăng phòng cũng sụp, trường học lạy ông đi qua lạy bà đi lại, cũng may chính phủ đồng ý đầu tư tiền, đập miếu cũ đi, xây dựng lại trường.

Không ngờ, vừa đập miếu xong đã xảy ra chuyện rồi.

Ở nông thôn, phá nhà là đại sự, theo tục lệ phải bắn pháo, thắp hương, thịt một con gà trống, kính thần thổ địa.

Nhưng nơi này là trường học, lại vào thời điểm ấy, hiệu trưởng cũng sợ người khác nói là phong kiến mê tín, nên không làm như vậy.

Kết quả vừa phá dỡ xong, liền phát hiện dưới nền bò ra một đống rắn, quấn vào nhau từng đoàn, quả thực có đến mấy trăm con, mặt đất như biến thành màu đen, rất nhiều con bị gạch đá đập chết, máu tươi đầm đìa, càng nhiều rắn hơn tức thì thục mạng bò ra ngoài.

Có lão nhân nói: "Ai da, dưới chỗ này lại có một Bàn Long sào, là phong thuỷ bảo địa nổi tiếng a… Bây giờ thì xong, bầy rắn chạy, tiên khí cũng tản, bảo địa biến thành tà địa…"

Mọi người cảm thấy kỳ quái, bởi vì đây cũng không phải cổ tự mấy trăm năm, mà chỉ là một ngôi miếu nhỏ, lịch sử được vài thập niên, ở dưới sao lại có thể có nhiều rắn như vậy?

Nhưng mọi người cũng không suy nghĩ nhiều, lấy một chút rượu đế, hùng hoàng các loại, rải khắp mặt đất, đuổi sạch bầy rắn.

Rắn hết rồi, khi tiếp tục đào xuống, lại xuất hiện một việc lạ.

Đào xuống chưa được bao sâu, phát hiện phía dưới tất cả đều là những tảng đá cực lớn, từng khối chồng chất lên nhau, che lấp mặt đất phía dưới kín kẽ đến cực điểm.

Mọi người hoài nghi, phía dưới chắc là có mật thất, hoặc là mật đạo gì đó, cho người đào đá lên, lại thấy lộ ra một cái hố, tối đen như mực, sâu không thấy đáy, hơn nữa còn tản ra mùi nấm mốc hư thối cổ quái.

Bên cạnh hố sâu có một thềm đá thông xuống phía dưới, dùng đèn pin chiếu vào, thềm đá xoắn ốc xuống, không biết dài bao nhiêu.

Trường học không dám tự chủ trương, lo lắng phía dưới có vấn đề, đến lúc đó nói không rõ ràng, vì vậy báo lên cấp trên.

Phía trên rất nhanh đã phái người xuống khảo sát, cũng không biết là đơn vị nào, lúc đến có vẻ rất hưng phấn, ngay cả trang bị cũng không có, trực tiếp đi xuống, cho là tầm bảo.

Kết quả hai người xuống dưới không bao lâu, đã liều mạng khóc thét lên, như là gặp phải ác quỷ.

Hiệu trưởng lúc ấy còn là một chàng trai trẻ tuổi, khỏe mạnh cường tráng, nghe thấy tiếng bọn họ cầu cứu, cũng không suy nghĩ nhiều, cầm lấy đèn pin vọt xuống dưới.

Sau khi đi xuống, mới phát hiện dưới này rất sâu, hơn nữa còn vô cùng lạnh, càng đi càng lạnh, đi được khoảng hơn mười mét, như là đã đến hầm băng, thật sự là lạnh đến thấu xương, hơi lạnh vù vù bốc lên.

Cái này còn không phải đáng sợ nhất.

Ông nói, đáng sợ nhất là, cậu có thể cảm giác được rõ ràng xung quanh có người, nữ có nam có, bọn họ vây quanh cậu xì xào bàn tán, che miệng cười trộm, nhưng cậu lại không nhìn thấy bọn họ, thậm chí còn có thể nghe được có người thở dài bên tai cậu, liên tục không dứt, thật sự vô cùng kinh khủng.

Lúc ấy ông tuổi trẻ khí thịnh, sốt sắng cứu người, bằng không đã sớm quay đầu chạy mất.

Ông gắng sức kiên trì, rốt cuộc cũng tìm được hai người kia, bọn họ đã tê liệt ngã ngồi trên mặt đất, không ngừng gào thét.

Ông lấy đèn pin chiếu quanh một vòng, mới hiểu vì sao hai người kia lại sợ hãi như vậy.

Trước mặt bọn họ là một cái hố cực lớn, trong hố có những bộ xương khô trắng toát, nhất là nguyên một đám đầu lâu, nhiều không đếm xuể, từng cái một, còn có những cánh tay đang cuồng loạn nhảy múa, nhiều như cỏ dại, liếc nhìn lại, phía dưới không rõ điểm cuối, khắp nơi đều là xương trắng, chỉ sợ phải có hàng ngàn hàng vạn bộ.

Nơi đây thế mà lại là một hố chôn tập thể!

Trong đầu ông trống rỗng, cũng không dám suy nghĩ nhiều, đỡ hai người kia dậy, ba người bấu víu lấy nhau, liều mạng chạy ra ngoài.

Có điều, ông thật không ngờ, sự việc tà môn này, hiện tại mới chính thức bắt đầu.

Hoặc là nói, bọn họ vô tình đã mở ra động ác quỷ.

Đêm đó, ông mơ một giấc mơ rất quái dị.

Giấc mơ này thực sự kỳ quái, đầu tiên, ông nhìn thấy bản thân mình trong mơ.

Nghe nói con người không thể nhìn thấy chính bản thân mình trong mơ.

Trừ khi là linh hồn đã rời khỏi thân thể.

Nhưng lúc đó ông thực sự nhìn thấy chính mình, đang yên ổn nằm ngủ trên giường, không khác gì một người bình thường.

Sau đó tình cảnh xung quanh đột nhiên thay đổi, như đã đến một không gian khác, chung quanh đen kịt, chỉ có thể nhìn thấy ánh sao đầy trời.

Tiếp đó, ông cảm thấy mình nhanh chóng thu nhỏ lại, càng ngày càng nhỏ, ánh sao trên trời lại càng ngày càng lớn.

Cũng không phải càng ngày càng lớn, là những vì sao đang rơi từ trên trời xuống, vừa nhanh vừa vội, càng ngày càng gần, trông có vẻ càng lúc càng lớn, mắt thấy những vì sao cứ to dần, chính mình càng ngày càng nhỏ, trong lòng ông rất sợ, hận không thể núp vào trong kẽ đất, nhưng xung quanh đen kịt, căn bản không có bất cứ nơi nào để trốn.

Lúc này, trong âm u vô tận xuất hiện một thanh âm, triệu hồi ông, để ông đi theo thanh âm đó, có thể tránh nạn.

Ông kể, cảm giác này rất kỳ quái, tựa như cậu đang khó khăn bước từng bước trong một đường hầm tăm tối đã lâu rồi, trước không thấy cổ nhân, sau không thấy người đến, đã vô cùng tuyệt vọng, lúc này, trước mắt đột nhiên xuất hiện một chùm sáng, một thánh nhân đang gọi tên cậu, chỉ đường cho cậu, cậu đương nhiên sẽ không hề do dự đi theo.

Ông đi mãi, đi mãi, cuối cùng té nhào trên mặt đất, sau đó đầu tê rần, ngất đi.

Đến khi ông tỉnh lại, đã là ban ngày, nhìn vẻ mặt hoảng sợ của những người xung quanh, thông qua lời thuật lại, ông mới chắp vá ra được câu chuyện đã xảy ra tối hôm qua.

Buổi tối hôm qua, ông mộng du, hoặc nói trắng ra chính là, ông trúng tà.

Nửa đêm, ông đột nhiên bật dậy, đèn cũng không bật, mặc quần áo chỉnh tề, sau đó ra khỏi nhà, đi về phía trường học.

Bởi vì xuất hiện hố chôn vạn người, tất cả học sinh đều chuyển đến trường phụ gần đó, công trường cũng bị niêm phong, cát, xi-măng chồng chất khắp nơi, một mảnh hỗn độn, đừng nói buổi đêm, coi như là giữa ban ngày muốn đi qua, cũng phải mất không ít sức lực.

Nhưng ông rất nhẹ nhàng vượt qua những thứ này, đi tới chỗ cửa động đã bị ván gỗ đậy kín, bắt đầu động thủ, mở ra.

Ở đây còn phải bổ sung một chi tiết, đó là sau khi ông đi ra ngoài, đi qua nhà nào là chó nhà ấy bắt đầu sủa không ngừng, thậm chí có mấy con còn hú lên thê lương như tiếng sói tru.

Cũng may là ông ở ngay đầu thôn, trường học lại ở cuối thôn, một đường đi về, chó cả thôn đều bị kinh động, quả thực chẳng khác nào tiếng sấm Cửu Thiên. Có người cảm thấy là lạ, dậy mở cửa ra xem, liền phát hiện dưới ánh trăng, ông nhắm mắt, chầm chậm bước đi, còn vác đá, sợ tới mức vội gõ cửa nhà trưởng thôn, mọi người cùng hiệp lực, mới bắt được ông.

Khi giữ được ông lại, mọi người mới phát hiện, trên người ông rất sạch sẽ, ngay cả một chút bụi bặm cũng không có, thậm chí đã làm nhiều việc như vậy, một giọt mồ hôi cũng không ra.

Cái này mới là đêm thứ nhất.

Về sau, mỗi buổi tối, ông đều như vậy, cho dù nhốt ông trong phòng, thậm chí là trói ông lại, hay tìm người ngủ cùng ông, ông luôn có thể thong dong vượt qua những chướng ngại vật trên đường, một thân sạch sẽ đâu vào đấy, trở lại công trường, bắt đầu chuyển gạch, hơn nữa tiến độ mỗi ngày còn tăng dần.

Cứ như vậy, giằng co suốt nửa tháng.

Mà tốc độ chuyển gạch của ông đã đề cao đến trình độ có thể chuyển ra một cái cửa động đủ cho một người vào.

Vị cựu hiệu trưởng nhớ rất rõ, ngày đầu tiên ông mộng du là mùng một, ngày cuối cùng là mười lăm.

Đã đến mười lăm, tất cả mọi người đều tuyệt vọng, nói ông nhất định là trúng tà, hay là đi vào miếu khấn bái một lần, bằng không nếu xảy ra chuyện là xong đời.

Miếu của dân bản địa nơi đây cũng không quan tâm là Phật đạo hay gì, chỉ cần có hiệu nghiệm là được, nơi bọn họ thường xuyên đến, là một ngôi miếu có tên miếu Bà.

Vì sao ngôi miếu này lại được gọi là miếu Bà? Bà ở đây là ai?

Ai cũng không biết.

Mọi người chỉ biết rằng, trẻ con mà ốm vặt, vào miếu chắp tay khấu đầu vái mấy lần là khỏi.

Lúc ấy ông không tin cái này, cảm giác mình quá căng thẳng, bị mộng du, nhưng mộng du hoài như vậy quả thực cũng tà tính, cứ nghe người khác đi bái một lần xem sao, xin trong chùa một cái băng gấm khai quang.

Người trong chùa nói với ông, lúc chuẩn bị đi ngủ, nói "Bà phù hộ con" ba lần, sau đó buộc băng gấm lên tay là được rồi.

Trong lòng ông nghĩ, cái này thật sự quá khó tin, một cái băng gấm thế này mà trói được mình lại? Biết bao nhiêu người không giữ nổi mình rồi?

Có điều không tin cũng phải tin, ông làm thử, đêm đó thật sự ngủ một giấc đến hừng đông, mọi người cũng chấn động.

Ông nói, từ đó về sau, mấy chục năm qua, đừng nói mộng du, ngay cả ác mộng ông cũng không gặp một lần nào.

Càng đừng nói ác mộng, ngay cả mơ bình thường cũng rất ít gặp, cho tới bây giờ đều một giấc ngủ đến tận sáng.

Cũng do nguyên nhân này, ông mới bắt đầu tin vào tôn giáo, gặp miếu là bái, gặp quan liền kính, bất kể Phật đạo, chỉ cầu tâm an.

Tôi nhịn không được hỏi ông, ngôi chùa trong thôn bị phá năm đó là có chuyện gì xảy ra?

Ông bảo, năm ấy Dịch huyện có rất nhiều đội du kích, quân Nhật Bản càn quét thường xuyên, bắt rất nhiều người, sau đó sát hại, bí mật giấu đi, xem ra chỗ đó chính là nơi chúng vùi lấp thi thể cả vạn đồng bào.

Lúc đó bọn họ còn cảm thấy kỳ quái, chùa chiền bình thường đều được tu kiến ở nơi non xanh nước biếc, giữa sườn núi, thế nào lại vô duyên vô cớ xây dựng trong một thôn nhỏ bế tắc, khốn cùng?

Hoá ra, ngôi miếu này là để trấn áp, hay siêu độ hố vạn người này.

Mọi người nhớ lại, người xây miếu năm đó, chính là một hòa thượng bình thường. Năm ấy, khi ông vân du qua, nơi đây còn là một phế tích, không có một ngọn cỏ, ai cũng không biết phía dưới dĩ nhiên là một hố chôn tập thể.

Vị hoà thượng đi đến đây, thở dài một hơi, lắc đầu, sau đó ngồi ngay xuống, bắt đầu niệm kinh.

Buổi tối ấy, hòa thượng ngồi suốt đến sớm hôm sau, nói với mọi người, phải xây một ngôi miếu ở đây

Xây chùa miếu nào có dễ dàng như vậy?

Ông ngược lại cũng không vội, trước tiên làm một túp lều, ở ngay trên phế tích này, sau đó kêu gọi ủng hộ tiền, hao tốn không biết bao nhiêu tâm huyết, rốt cục từng chút từng chút xây lên đại điện, miếu thờ, tăng phòng, xây dựng thành công một ngôi miếu nhỏ.

Thẳng cho đến khi kiếp nạn đến, chùa đã trở thành trường học, lại vẫn tiếp tục thực hiện trách nhiệm.

Đến tận khi nó rốt cuộc không chịu nổi, ầm ầm sụp đổ, mới để lộ ra chân tướng kinh khủng như vậy.

Không ai biết tên vị hòa thượng kia, thậm chí ông trông thế nào cũng không có người nhớ rõ.

Ở nơi thâm sơn cùng cốc này, ngôi miếu ông xây lại nhỏ như vậy, cũng không có hòa thượng nào đi theo ông, tự nhiên cũng không có lưu lại sư thừa, cứ như vậy mà dần dần tiêu tán trong thiên địa, biến thành một nắm tro bụi, thậm chí mộ phần của ông cũng không biết ở nơi nào.

Đêm đã khuya.

Đột nhiên rất muốn uống rượu.

Tôi rót ba chén rượu, một chén kính thiên địa, một chén kính chính mình, một chén kính cho vị hòa thượng ấy.

Khổng nói thành nhân, Mạnh kể giữ nghĩa, lão hòa thượng cái gì cũng không nói, ông chẳng qua chỉ khẽ cười, trong lòng nhẹ nhàng niệm một câu: A Di Đà Phật.